admin@phapluatdansu.edu.vn

DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH VỀ BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (Dự thảo 1)

Chương I

QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở về bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm; tài sản bảo đảm; xác lập, thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và xử lý tài sản bảo đảm.

Continue reading

QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CỘNG HÒA PHÁP

 JEAN-FRANÇOIS MARY – Thẩm phán Tham chính viện, Cộng hòa Pháp

Mỗi nước có một nền văn hóa pháp lý riêng, bắt nguồn từ lịch sử, quá khứ, phương thức tổ chức chính trị và tổ chức hệ thống hành chính của nước mình. Nước Pháp cũng vậy. Đương nhiên, không được gò ép nước này đi theo hệ thống pháp luật của nước khác, mà chỉ nên tìm hiểu để rút ra những bài học kinh nghiệm và tìm ra các điểm chung hơn là những điểm khác biệt. Với mục đích như vậy, những hoạt động trao đổi như cuộc tọa đàm 2 ngày của chúng ta rất thiết thực. Tất nhiên tôi cũng nhận thấy rằng vai trò của Nghị viện ở Việt Nam không hoàn toàn giống như vai trò của Nghị viện ở Pháp. Ở Pháp, ngoài kỳ nghỉ ra, cả Hạ nghị viện lẫn Thượng nghị viện đều hoạt động gần như những cơ quan thường trực. Nghị viện ở Pháp có các luật gia, chuyên gia (gồm cả công chức hoặc không phải là công chức) hỗ trợ cho các nghị sĩ trong việc chuẩn bị các dự án luật. Thứ hai, so với các tiêu chí của Pháp thì dự thảo luật của Việt Nam có thể được trình bày theo nhiều khía cạnh khác nhau.

Ví dụ, ở Pháp, tất cả những quy định về cải tiến hoạt động của Nghị viện sẽ được tập hợp trong một đạo luật tổ chức, tức là luật được ban hành nhằm hướng dẫn thi hành một số quy định của Hiến pháp và xét về thực chất, thuộc khối quy phạm hiến định. Bên cạnh đó, những quy định liên quan đến hoạt động của Chính phủ có thể được tập hợp trong một đạo luật, thậm chí trong nghị định của Chính phủ (trường hợp quy định về tổ chức và hoạt động của một bộ).

Continue reading

BẢO ĐẢM TÍNH THỐNG NHẤT PHÁP LUẬT TẠI CHLB ĐỨC

GS.TS. JÜRGEN W. SIMON – Đại học Tổng hợp Lüneburg, CHLB Đức

A. Khái quát chung về công tác xây dựng pháp luật

Công tác xây dựng pháp luật ở Đức có những nét đặc trưng được thể hiện qua việc xây dựng chặt chẽ các quy phạm trong nước và việc chấp nhận các quy phạm quốc tế hoặc quy phạm được xây dựng giữa các quốc gia (Cộng đồng Châu Âu). Mô hình xây dựng pháp luật này, với những lựa chọn khác nhau, là mô hình điển hình cho các quốc gia thành viên Cộng đồng Châu Âu. Xin giới thiệu dưới đây ba mô hình sau:

1. Thủ tục xây dựng pháp luật tiêu chuẩn của Đức

1.1. Quá trình thủ tục

Hoạt động xây dựng pháp luật tiêu chuẩn là cách thức thông thường được sử dụng để xây dựng pháp luật liên bang ở Đức. đồng thời, hoạt động xây dựng pháp luật này cho thấy được sự thống nhất và đồng bộ trong việc soạn thảo và ban hành văn bản pháp luật. Dưới đây, tôi xin phác thảo qua hoạt động xây dựng pháp luật này và đưa ra những giải pháp về những khía cạnh được coi là quan trọng đảm bảo tính thống nhất, việc ban hành cũng như đưa ra các khuyến nghị cho công tác lập pháp của Việt Nam. Tuy nhiên, trong lần này, tôi chỉ có thể khái quát một phần các khía cạnh có liên quan do thời gian có hạn. Hơn nữa, các ý tưởng sẽ được đưa ra trong Chủ đề 2.

Hoạt động xây dựng pháp luật ở Đức được tiến hành theo những bước sau:

Continue reading

KINH NGHIỆM CỦA NHẬT BẢN VỀ ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT, ĐỒNG BỘ TRONG HOẠT ĐỘNG SOẠN THẢO, BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT

 MORINAGA TARO – Công tố viên và Luật sư Chính phủ, Cố vấn trưởng Dự án JICA về Hợp tác Pháp luật tại Việt Nam

Việc không đảm bảo được tính thống nhất trong xây dựng pháp luật có thể là một mối nguy hiểm hoặc cản trở nghiêm trọng đối với đời sống xã hội. Xấu hơn nữa, nó có thể dẫn tới sự mất ổn định của cả đất nước và hệ thống chính trị do thiếu sự tin tưởng của công chúng vào các luật và hệ thống pháp luật. Do vậy, để tránh gặp phải tình huống không mong đợi đó, các nước đã nỗ lực để thiết lập và duy trì một khuôn khổ mang tính hệ thống, cả về lý luận và tổ chức, để hài hoà hoá và đảm bảo tính thống nhất của hàng loạt các quy phạm và quy định cần thiết cho xã hội. Bản thân Nhật Bản cũng đã rất nỗ lực trong vấn đề này. Trong phần này, tôi muốn chia sẻ với các bạn một số thông tin về việc Nhật Bản đã xử lý vấn đề này như thế nào và các khả năng có thể khác từ kinh nghiệm của Nhật Bản mặc dù có sự khác biệt trong toàn bộ hệ thống pháp luật và lối suy nghĩ cơ bản. Ngoài ra, nếu thời gian cho phép, tôi xin chỉ ra một số đặc điểm trong cách làm luật của Việt Nam từ cách nhìn của một người nước ngoài và một số khuyến nghị nhằm cải thiện hơn nữa bí quyết xây dựng pháp luật.

Đảm bảo tính hợp pháp và tính thống nhất của các văn bản quy phạm pháp luật ở Nhật Bản

Như mọi người đã biết, Nhật Bản nằm trong nhóm các nước có "hệ thống pháp luật thành văn” cùng với nhiều nước Châu Âu lục địa và phần lớn các nước châu Á khác trong đó có Việt Nam, nơi mà "pháp luật thành văn” là nguồn pháp luật cơ bản. Mặc dù từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống xã hội bao gồm cả hệ thống pháp luật chịu ảnh hưởng nhiều của Hoa Kỳ, thì các đạo luật khung thành văn cơ bản vẫn theo lối lục địa được tạo ra trong thời đại Meiji (1868-1912), bằng việc hăm hở "du nhập” tư tưởng và khái niệm của Đức (Prussian) và Pháp. Cao nhất trong toàn bộ hệ thống là Hiến pháp Nhật Hoàng (1889) mang mầu sắc Prussian, pháp luật đã hình thành các thứ bậc một cách lô gích trong nền quân chủ lập hiến. Sau khi thua trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1945, Nhật Bản tự chuyển đổi thành nước dân chủ kể cả về mặt pháp luật bằng việc thay Hiến pháp Nhật Hoàng bằng Hiến pháp hiện tại khác hẳn với Hiến pháp cổ về hệ tư tưởng và khái niệm cơ bản. Nhưng điều này không có nghĩa là tính thức bậc cơ bản của pháp luật bị phá vỡ.

Continue reading

DỰ THẢO THÔNG TƯ CỦA BỘ TÀI CHÍNH QUY ĐỊNH QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ ĐỐI VỚI NGƯỜI ĐÃ HIẾN BỘ PHÂN CƠ THỂ NGƯỜI, HIẾN XÁC

DỰ THẢO

Căn cứ Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác số 75/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006;

Căn cứ Nghị định số 215/2013/NĐ-CP ngày 23 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;

Theo đề nghị của Vụ trưởng Vụ Tài chính hành chính sự nghiệp;

Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ đối với người đã hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác.

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng

1. Phạm vi điều chỉnh

Thông tư này quy định quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện chế độ đối với người đã hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác, bao gồm: chế độ khám sức khỏe định kỳ đối với người đã hiến bộ phận cơ thể ở người sống; chế độ tổ chức tang lễ và mai táng di hài đối với người hiến bộ phận cơ thể người sau khi chết, hiến xác; thủ tục khám sức khỏe định kỳ và hưởng chế độ tang lễ, mai táng di hài; nguồn kinh phí thực hiện; trách nhiệm chi trả và công tác quản lý tài chính.

2. Đối tượng áp dụng

a) Người đã hiến bộ phận cơ thể người, hiến xác.

Continue reading

DỰ THẢO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH (được hợp nhất theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000) – Phiên bản lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương và nhân dân

DỰ THẢO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

(được hợp nhất theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000)

(Phần có chữ in nghiêng là nội dung được sửa đổi, bổ sung)

LỜI NÓI ĐẦU

Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.

Để đề cao vai trò của gia đình trong đời sống xã hội, giữ gìn và phát huy truyền thống và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, xóa bỏ những phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình;

Để nâng cao trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam;

Kế thừa và phát triển pháp luật về hôn nhân và gia đình Việt Nam;

Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992;

Luật này quy định chế độ hôn nhân và gia đình.

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Nhiệm vụ và phạm vi điều chỉnh của Luật hôn nhân và gia đình

Luật hôn nhân và gia đình có nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững.

clip_image001Luật hôn nhân và gia đình quy định chế độ hôn nhân và gia đình, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Continue reading

DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000 (Phiên bản lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương và nhân dân)

DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU

CỦA LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2000

(Phần có chữ in nghiêng là nội dung được sửa đổi, bổ sung)

Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết số 51/2001/QH10;

Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật hôn nhân và gia đình số …/20../QH13,

Điều 1. Sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình:

1. Điều 2 được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình

1. Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng.

2. Hôn nhân giữa công dân Việt Nam thuộc các dân tộc, các tôn giáo, giữa người theo tôn giáo với người không theo tôn giáo, giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.

3. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

4. Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con thành công dân có ích cho xã hội; con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ; cháu có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà; các thành viên trong gia đình có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau.

5. Truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình được kế thừa và phát huy.

6. Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử về giới và mọi sự phân biệt đối xử khác giữa các con trong gia đình.

7. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm bảo vệ, hỗ trợ trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ; giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ.”

GÓP Ý CHO DỰ THẢO LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN

THS. BÙI XUÂN PHÁI – Giảng viên khoa Hành chính – Nhà nước

Một văn bản luật ra đời là một sản phẩm của nhiều hoạt động mang tính trí tuệ cao. Luật tiếp cận thông tin là một văn bản quan trọng, cụ thể hoá một phần quyền cơ bản của công dân – quyền tự do thông tin. Nó cũng là sự thể hiện thái độ trách nhiệm của nhà nước ta trước các điều ước quốc tế mà Việt nam là thành viên và trước nhân dân, đồng thời xác định mối quan hệ giữa nhà nước với nhân dân trong nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang quyết tâm xây dựng.

Có thể nói đây là một bước chuyển quan trọng về chất trong quan niệm của chúng ta về quyền con người. Tuy nhiên, đây là lần đầu chúng ta xây dựng một luật về vấn đề này nên không thể tránh khỏi những khó khăn. Với mong muốn góp phần vào việc làm hoàn thiện luật này, tôi xin có một số góp ý cho dự thảo như sau:

Về tên gọi của dự luật này.

Nếu đây là văn bản luật được ban hành nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 1992 (được sửa đổi năm 2001) về quyền được thông tin của công dân thì tên gọi dự luật này không phản ánh hết ý nghĩa của quyền này và như vậy đương nhiên nội dung và phạm vi điều chỉnh sẽ bị thu hẹp lại. Quyền được thông tin phải bao gồm cả quyền được biết thông tin và quyền được tạo ra thông tin. Tất nhiên các quyền này có giới hạn và phải gắn với những nghĩa vụ và bảo đảm nhất định. Quyền được biết thông tin gắn liền với quyền được cung cấp thông tin được đảm bảo bởi các chủ thể có trách nhiệm, còn quyền được tạo ra thông tin lại gắn với bản thân mỗi công dân và các chủ thể khác. Nếu dự luật để tên như vậy thì thiếu nội dung thứ hai và quyền cơ bản của công dân không được cụ thể hóa một cách đầy đủ. Nếu thể hiện được cả nội dung thứ hai này thì ý nghĩa của nó chính là sự thể hiện tính tích cực chính trị của công dân mà đặc biệt trong việc xây dựng chính sách pháp luật, đồng tời liên quan gần gũi với hoạt động phẩn biện xã hội.

Chương 1

Thứ nhất, về phạm vi điều chỉnh. Nếu như dự luật có sự tiếp nhận ý kiến trên, phạm vi điều chỉnh của luật phải được mở rộng ra khá nhiều. Đó chính là những quan hệ xã hội xảy ra trong các hoạt động tạo ra thông tin và phổ biến thông tin. Luật là để điều chỉnh quan hệ xã hội biểu hiện thông qua hành vi của con người nên dự luật: “quy định về thông tin được tiếp cận, …hình thức tiếp cận thông tin…” là không hợp lý. Nên chỉnh lại là: “luật này xác định các loại thông tin mà công dân, cơ quan, tổ chức được tiếp cận…” và “quy định hình thức công bố thông tin”. Thông tin là cái đã có nên luật không quy định mà chỉ xác định thông tin nào thuộc đối tượng mà cá nhân, tổ chức… tiếp cận. Mặt khác, hình thức tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức… không phụ thuộc vào quy định của pháp luật.

Continue reading

THỰC TIỄN ĐÒI HỎI SỰ BẢO ĐẢM CAO HƠN ĐỐI VỚI DỰ LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM

LS. TRƯƠNG THANH ĐỨC – Chủ tịch Công ty Luật BASICO

1. Đi tìm ý nghĩa, tác dụng thực tế của Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm

Trước hết, tôi xin được chia sẻ với Ban soạn thảo và Tổ biên tập Dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm về những vướng mắc phát sinh khi mục đích đề ra của dự thảo Luật là tạo ra bước đột phá để giải quyết tình trạng phân tán, manh mún, bất hợp lý về đăng ký giao dịch bảo đảm được quy định trong một số văn bản hiện hành như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Hàng không dân dụng, Bộ luật Hàng hải,…

Một điểm mấu chốt mà Luật này cần phải khắc phục, đó là pháp luật hiện hành chưa phân định rõ về giá trị pháp lý của giao dịch bảo đảm và giá trị pháp lý của đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo tôi, dự thảo Luật cần khẳng định theo một hướng duy nhất, đã được quy định tại khoản 3 Điều 323 của Bộ luật Dân sự: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”. Xét về bản chất, nếu giao dịch bảo đảm đã xuất phát từ sự tự nguyện của các bên tham gia, các nội dung thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật thì phải có hiệu lực ngay với các bên tham gia giao dịch. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ có giá trị đối kháng với người thứ 3, chứ không phải là quyết định giá trị hiệu lực của giao dịch bảo đảm như quy định hiện nay đối với với các trường hợp bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm.

Để giải quyết vấn đề này, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm nên quy định thống nhất, tập trung những nội dung đang còn bất hợp lý trong các quy định của pháp luật chuyên ngành, chứ không nên chỉ quy định đơn thuần về mặt thủ tục và hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm.

2. Cần tập trung về một đầu mối đăng ký giao dịch bảo đảm

Dự thảo Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm cần tập trung hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm vào một đầu mối đăng ký và đề cao vai trò của Cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm quốc gia. Về quy định, thì Cục Đăng ký Quốc gia Giao dịch bảo đảm có vai trò rất quan trọng trong việc giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà nước về đăng ký giao dịch bảo đảm trong phạm vi toàn quốc. Tuy nhiên, trên thực tế, mới chỉ xây dựng thể chế, pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm và đảm nhận quản lý việc đăng ký giao dịch bảo đảm đối với động sản của các Trung tâm Đăng ký. Trong khi đó, giao dịch bảo đảm bằng bất động sản và tàu thuỷ, tàu bay có vị trí quan trọng, chiếm phần lớn trị giá của giao dịch bảo đảm, nhưng lại đang do các cơ quan chuyên ngành (Tài nguyên và Môi trường, Hàng không, Hàng hải) trực tiếp đảm nhận nhiệm vụ đăng ký. Do đó, Luật Đăng ký giao dịch bảo đảm chỉ thật sự cần thiết, có ý nghĩa và đáp ứng được đòi hỏi thực tế khi có đầy đủ các quy phạm pháp luật nhằm thống nhất về một đầu mối đăng ký giao dịch bảo đảm.

Continue reading

RÀNG BUỘC LỆCH CHUẨN

LS. TRƯƠNG THANH ĐỨC – Chủ tịch Công ty Luật BASICO

Cả hai bên đi thuê và làm thuê đều hy vọng Bộ luật Lao động sửa đổi sẽ có được những thay đổi dứt khoát, mạnh mẽ. Tuy nhiên Dự thảo Bộ luật Lao động chuẩn bị trình Quốc hội thông qua vẫn giữ lại nhiều quy định vướng mắc, bất cập, thậm chí còn thụt lùi so với Bộ luật Lao động hiện hành.

Những ràng buộc vô lý

Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận tự nguyện của hai bên, thể hiện kết quả thuận mua, vừa bán hàng hóa sức lao động. Tuy nhiên, Dự thảo lại đưa ra quy định mới là, người sử dụng lao động không được yêu cầu thử việc đối với người lao động làm theo hợp đồng lao động theo mùa vụ (Điều 34). Như vậy, khác nào bắt người thuê lao động làm việc vài tháng cứ phải nhắm mắt nhận bừa bất kể ai?

Dự thảo quy định, trong quá trình thực hiện hợp đồng lao động, nếu bên nào có yêu cầu thay đổi nội dung hợp đồng thì phải báo cho bên kia biết trước ít nhất 3 ngày làm việc (Điều 38). Quy định mốc 3 ngày này là vô nghĩa, vì chẳng ràng buộc được điều gì. Trong trường hợp này, bên đề nghị có quyền đưa ra lúc nào cũng được, còn nghĩa vụ về thời gian phải là của bên tiếp nhận. Do vậy, cần phải quy định ngược lại là, bên nhận được yêu cầu thay đổi nội dung hợp đồng phải trả lời bên kia trong thời hạn 3 ngày.

Theo Bộ luật hiện hành, thì người lao động làm việc theo loại hợp đồng không xác định thời hạn có thể chấm dứt hợp đồng không cần lý do, miễn là báo trước 45 ngày. Còn theo Dự thảo này thì trong mọi trường hợp, người lao động chỉ được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong 7 trường hợp, khi có những lý do thật là chính đáng như “bị ngược đãi; bị cưỡng bức lao động” hay “bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thế tiếp tục thực hiện hợp đồng” (Điều 44) và kèm theo điều kiện phải báo trước một số ngày nhất định (Điều 45). Như vậy, thì đồng nghĩa với việc người lao động làm việc theo bất kỳ loại hợp đồng nào cũng đều bị “trói” chặt, không được quyền rời bỏ nơi này để đến nơi khác dù tốt hơn về nghề nghiệp, thu nhập, điều kiện làm việc,… Ngược lại, thì phía người sử dụng lao động cũng vẫn tiếp tục bị trói chân, trói tay trong việc luân chuyển, thay thế, đào thải lao động như những quy định chặt chẽ lâu nay. Những quy định này là trái ngược với đòi hỏi tự do cạnh tranh lao động trong nền kinh tế thị trường. Một mặt, nó làm cho người lao động bị hạn chế quyền đổi mới chỗ làm, mặt khác làm cho chính các doanh nghiệp cũng sẽ mất cơ hội tuyền dụng, sàng lọc được lao động phù hợp. Nguy cơ hiện hữu là đại đa số các trường hợp đổi việc đều bị rơi vào tình trạng trái pháp luật và phải bồi thường. Nếu cứ giữ nguyên quy định này, thì không có gì khó hiểu khi pháp luật lao động vẫn sẽ là lĩnh vực bị vi phạm nhiều nhất trong tương lai.

Continue reading

MỘT SỐ NHẬN XÉT PHẢN BIỆN VỀ DỰ THẢO LUẬT CẠNH TRANH (DỰ THẢO 09) NĂM 2004

Tác giả viết bài này vào thời điểm Luật Cạnh tranh năm 2004 đang được xây dựng ở Dự thảo 9. Một số thông tin không còn phù hợp với thời điểm hiện tại. Song có rất nhiều thông tin còn hữu ích cho việc học tập và nghiên cứu pháp luật.

GS.TS. NGUYỄN VÂN NAM

Do thời gian rất hạn chế, những nhận xét có tính chất phản biện Dự thảo Luật Cạnh Tranh của tôi dưới đây chủ yếu tập trung vào những vấn đề có tính nguyên tắc có khả năng ảnh hưởng rất tiêu cực đến quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và sẽ gây ra những trở ngại lớn trong quá trình thực thi Luật Cạnh Tranh dẫn đến những hậu qủa đáng tiếc cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới của chúng ta.

Trước mắt, tôi cũng sẽ chỉ tập trung nhận xét về Luật Chống Cạnh Tranh Không Lành Mạnh do tính chất quyết định của nó trong việc bảo đảm quyền tự do hoạt động kinh tế của các chủ thể tham gia thị trường, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và truyền thống đạo lý của nước ta.

Những phân tích phản biện sau đây được định hướng theo tiêu chuẩn pháp lý tối thiểu mà Tổ chức Thương mại Thế giới WTO yêu cầu các nước thành viên phải thực hiện.

A. TIÊU CHUẨN PHÁP LÝ TỐI THIỂU CỦA WTO.

I. Những vấn đề có tính nguyên tắc.

Với mục đích thúc đẩy tự do hóa thương mại toàn cầu, WTO qui định khung pháp lý- có tính chất định chế chung- cho các nước thành viên trong hoạt động thương mại giữa họ ( Điều II khoản 1 WTO). Tiêu chuẩn pháp lý tối thiểu này của WTO được xây dựng trên hai trụ cột có tính chất bắt buộc đối với mỗi nước thành viên là:

– Nhà nước pháp quyền.

– Hệ thống luật pháp ổn định, minh bạch, có tính dự đoán và có khả năng thực thi.

1.Nhà nước pháp quyền:

a) Nguyên tắc chung:

Mọi hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội đều phải gắn liền và tuân theo pháp luật, bảo đảm công lý.

Continue reading

BÁO CÁO SỐ 316/BC-UBTVQH12 NGÀY 21 THÁNG 04 NĂM 2010 CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI GIẢI TRÌNH TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ ÁN LUẬT THUẾ NHÀ, ĐẤT

Kính thưa:
Các vị đại biểu Quốc hội,

Dự án Luật thuế nhà, đất đã được Quốc hội khóa 12 cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6. Sau kỳ họp, Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo Cơ quan thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, lấy ý kiến nhân dân để hoàn chỉnh Dự án Luật.

Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo Quốc hội về việc tiếp thu, chỉnh lý Dự án Luật này như sau:

I. VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1. Về sự cần thiết ban hành, phạm vi áp dụng và tên gọi của luật

Theo quy định của Dự thảo luật thì Luật thuế nhà, đất được ban hành để áp dụng thuế đối với hai loại đối tượng là: (1) nhà ở và (2) đất phi nông nghiệp.

Nhiều ý kiến tán thành về sự cần thiết ban hành luật. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị chưa ban hành luật tại thời điểm hiện nay. Cần khảo sát, đánh giá và cân nhắc tính hợp lý của việc ban hành.

Dưới đây, UBTVQH xin báo cáo cụ thể về sự cần thiết ban hành luật đối với từng loại đối tượng (nhà và đất) như sau:

a. Về sự cần thiết ban hành luật thuế áp dụng đối với đất phi nông nghiệp

UBTVQH cho rằng, cần thiết ban hành luật thuế áp dụng đối với đất phi nông nghiệp với lý do sau:

Thứ nhất, Pháp lệnh thuế nhà, đất được UBTVQH thông qua ngày 3/7/1992, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 1994, quy định về điều tiết nguồn thu đối với đất phi nông nghiệp. Pháp lệnh này bước đầu đặt cơ sở cho việc tăng cường quản lý, động viên đóng góp của người sử dụng đất vào NSNN, tăng cường nguồn lực cho ngân sách địa phương.

Continue reading

BÁO CÁO SỐ 324/BC-UBTVQH12 NGÀY 17 THÁNG 5 NĂM 2010 CỦA Ủ̉Y BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT AN TOÀN THỰC PHẨM

Kính gửi:
Các vị đại biểu Quốc hội,

Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội Khóa XII đã xem xét, cho ý kiến về dự thảo Luật An toàn thực phẩm. Đa số ý kiến đại biểu tán thành với sự cần thiết ban hành và nội dung cơ bản của dự thảo Luật An toàn thực phẩm, báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đồng thời đóng góp nhiều ý kiến cho Dự thảo Luật. Sau kỳ họp, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của các vị đại biểu Quốc hội về dự thảo Luật An toàn thực phẩm và gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội; đồng thời tổ chức nhiều hội nghị để xin ý kiến của đại diện nhiều cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, chuyên gia trong và ngoài nước. Tại Phiên họp thứ 27 (tháng 1/2010) và Phiên họp thứ 30 (tháng 4/2010), Ủy ban thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật An toàn thực phẩm để chuẩn bị trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 7.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật An toàn thực phẩm như sau:

I – VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÒN CÓ Ý KIẾN KHÁC NHAU

1. Về quản lý đối với thực phẩm được sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ lẻ

Có ý kiến đề nghị làm rõ Luật có quản lý an toàn thực phẩm đối với thực phẩm được sản xuất, kinh doanh quy mô nhỏ lẻ hay chỉ quy định đối với thực phẩm được sản xuất, kinh doanh quy mô công nghiệp.

Về vấn đề này, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, ở Việt Nam, việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm quy mô nhỏ lẻ còn phổ biến, liên quan tới đời sống của 9,4 triệu hộ nông dân trực tiếp sản xuất nông sản và người kinh doanh thực phẩm quy mô nhỏ lẻ. Vì vậy, để phù hợp với điều kiện thực tiễn và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, dự thảo Luật quy định theo hướng:

– Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đều phải bảo đảm an toàn thực phẩm, việc quản lý an toàn thực phẩm dựa trên tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng, các quy định do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành (Điều 3); Nhà nước có chính sách khuyến khích các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng thương hiệu, phát triển hệ thống cung cấp thực phẩm an toàn; khuyến khích và có lộ trình bắt buộc áp dụng hệ thống thực hành sản xuất tốt (GMP), thực hành nông nghiệp tốt (GAP) (Điều 4), quy định về quyền và nghĩa vụ của người sản xuất, kinh doanh thực phẩm (Điều 7 và Điều 8 Chương II), quy định về điều kiện bảo đảm an toàn trong sản xuất, kinh doanh thực phẩm (Chương IV).

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn