admin@phapluatdansu.edu.vn

TÌNH HUỐNG TỐ TỤNG: Bàn về thẩm quyền xác định quan hệ cha, mẹ, con

 VÕ VĂN TUẤN KHANH – TAND tỉnh Hậu Giang

1. Tình huống

Anh A và chị B cùng đăng ký thường trú tại ấp BN, xã ĐT, thị xã NB, tỉnh H, kết hôn vào năm 2008, không có đăng ký hôn. Quá trình chung sống đến năm 2009, A và B sinh được một con chung là cháu C, nhưng do D (là em trai của A) và vợ của D là E không có con nên muốn nhận C làm con đỡ đầu. Hơn nữa, do A và B không có đăng ký kết hôn, nên nhờ vợ chồng của D đi đăng ký khai sinh và đứng tên là cha, mẹ của C trên giấy khai sinh.

Continue reading

ĐẠO ĐỨC SINH HỌC VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

JERRY SAINTE-ROSE – Công tố viên cao cấp tại Toà Phá án Cộng hòa Pháp, Chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực pháp luật về đạo đức sinh học

I. Giới thiệu về đạo đức sinh học

Đạo đức sinh học là gì?

Bác sỹ chuyên khoa ung thư người Mỹ Von-Pater, người đã đưa ra khái niệm này, định nghĩa rằng đó là sự kết hợp giữa những khám phá sinh học với những giá trị nhân bản. Các nhà nghiên cứu về sự sống và về cơ thể sống thì cho rằng đó là một cách tiếp cận mới trong quá trình đưa ra những quyết định về những vấn đề đạo đức và về việc sử dụng các công nghệ mới có liên quan đến cơ thể sống và đến sức khoẻ của con người.

Trong thực tế, thực tiễn đạo đức sinh học đã xuất hiện trước khi có thuật ngữ để chỉ thực tiễn đó. Vào cuối cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, các nhà bác học thuộc mọi quốc gia đã tập hợp lại với nhau, bày tỏ sự lo lắng của họ trước việc sử dụng vũ khí hạt nhân và mong muốn định hướng cho tương lai. Quả bom nguyên tử đầu tiên ném xuống Nakasaki đã là một dấu hiệu của thực tiễn đạo đức sinh học.

Continue reading

ĐÔI LỜI VỀ CHUYỆN MANG THAI HỘ

THS. BS HỒ MẠNH TƯỜNG – tổng thư ký hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP.HCM

Mang thai hộ được định nghĩa là kỹ thuật giúp người phụ nữ không có khả năng mang thai, có thể được làm mẹ với con của chính mình bằng cách lấy tinh trùng của người chồng và noãn của người vợ thụ tinh trong ống nghiệm để tạo phôi. Phôi sẽ được cấy vào tử cung một người phụ nữ khác, gọi là người mang thai hộ, để mang thai và sinh em bé. Đứa trẻ sinh ra sẽ được chuyển giao cho bố mẹ sinh học (cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ). Người mang thai hộ hoàn toàn không có quan hệ huyết thống với đứa trẻ sinh ra.

Mang thai hộ bị nghiêm cấm thực hiện tại Việt Nam từ năm 2003 theo nghị định của Chính phủ về sinh con theo phương pháp khoa học. Do nhu cầu mang thai hộ ngày càng có xu hướng tăng ở Việt Nam, việc xem xét cho phép và quản lý kỹ thuật mang thai hộ ở Việt Nam được đặt ra, cho thấy Nhà nước đã nhìn nhận một nhu cầu có thật của người dân và tìm cách đáp ứng nhu cầu này.

Điều 63b của dự thảo quy định “việc cho và nhận tinh trùng, noãn, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc bí mật”. Theo tôi, về cho nhận tinh trùng nên chấp nhận cả hai hình thức vô danh (bí mật) hoặc hữu danh (công khai). Trong văn hoá, phong tục của người Việt, huyết thống, dòng tộc là một yếu tố rất nhiều người quan tâm; khi một người nam không có tinh trùng, nhu cầu xin tinh trùng của người trong dòng tộc cần được xem xét. Còn bí mật trong cho nhận noãn khó có thể thực hiện vì: người cho noãn phải đi khám, xét nghiệm, tiêm thuốc và chọc hút noãn với tổng chi phí có thể lên đến 30 – 40 triệu đồng, do đó gần như khó có người tự nguyện cho noãn; do đặc tính sinh học, việc đông lạnh noãn kém hiệu quả hơn nhiều so với đông lạnh tinh trùng và đông lạnh phôi, vì vậy thường phải thụ tinh noãn với tinh trùng chồng người nhận noãn để tạo phôi, sau đó mới chuyển phôi hoặc đông lạnh phôi. Trong một số trường hợp, có thể phải thực hiện quy trình theo dõi lấy noãn và chuẩn bị tử cung cho người nhận noãn cùng giai đoạn và cùng thời điểm. Theo quy định hiện nay, người có nhu cầu nhận noãn sẽ phải tự vận động người cho noãn tự nguyện để điều trị.

Continue reading

THỰC TIỄN THI HÀNH LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH: TRUY NHẬN CHA CHO CON, KHÓ TRĂM BỀ

LS. ĐINH THỊ QUỲNH NHƯ – Trưởng Văn phòng luật sư An Luật

Vụ án nào cũng có những khó khăn dù ít dù nhiều cho người tiến hành xét xử khi phải thu thập, xem xét, đánh giá chứng cứ.

Với những vụ “truy nhận cha cho con” thì việc xét xử lại càng khó trăm bề.

Trước hết là về mặt chứng cứ. Nếu trong một giao dịch dân sự bình thường nào đó, các bên có thể tiến hành công khai, minh bạch, có giấy trắng, mực đen, có thể có thêm người làm chứng thì những sự vụ như thế này, thường chỉ có người trong cuộc biết rõ với nhau mà thôi.

Chứng cứ mù mờ, gánh nặng giám định

Phần lớn những vụ truy nhận cha cho con bắt nguồn từ một mối quan hệ oái oăm, chẳng hạn người đàn ông ngoại tình khi đang có gia đình. Đối với những vụ việc này, tòa căn cứ vào lời khai và các chứng cứ khác để chứng minh họ có quan hệ tình cảm như thư từ, email, hình ảnh… Tuy nhiên, từ quan hệ tình cảm để khẳng định có quan hệ tình dục để sinh ra đứa bé thì không có một căn cứ nào đảm bảo.

Nếu người cha sau khi được tòa phân tích, thấy được trách nhiệm của mình thì vụ việc còn có thể kết thúc tốt đẹp, bằng không thì đành phải cậy nhờ vào các giám định khác để làm căn cứ xét xử. Một biện pháp phổ biến mà ai cũng nghĩ ngay đến là xét nghiệm ADN. Nhưng chi phí để làm thủ tục xét nghiệm là cả một vấn đề lớn đối với không ít phụ nữ. Ngày nay, chi phí đã giảm khá nhiều (tương đương 10 triệu đồng) mà không ít phụ nữ còn không thể có để ứng ra, nói gì đến trước đây. Bao nhiêu trường hợp sau khi nhận được thông báo của tòa, người mẹ đó chỉ biết ngậm ngùi ôm con về buông xuôi mọi chuyện, chấp nhận con mình không có cha và đứa trẻ buộc phải chấp nhận rằng trong khai sinh của nó có một phần trống ở ô “tên họ người cha” cũng như một khoảng trống trong tâm hồn do thiếu vắng vai trò của người đã tạo ra mình.

Đương sự trốn, từ chối xét nghiệm

Nhiều trường hợp, người mẹ có đủ tiền xét nghiệm ADN nhưng rồi cũng không thể tiến hành để có kết quả cho tòa xét xử bởi người cha đã “nhấn nút” biến mất.

Continue reading

VƯỚNG MẮC TỪ THỰC TIỄN: CHA MẸ VỊ THÀNH NIÊN ĐĂNG KÝ KHAI SINH CHO CON NHƯ THẾ NÀO?

THANH XUÂN

Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định khá chi tiết các thủ tục cần thiết trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có những trường hợp phát sinh nhưng chưa được hướng dẫn giải quyết, khiến cơ quan đăng ký hộ tịch lúng túng.

Mất giấy chứng sinh, đăng ký khai sinh bằng giấy tờ nào?

Điều 15, Nghị định 158 về thủ tục đăng ký khai sinh quy định, người đi đăng ký khai sinh phải nộp Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định) và xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ (nếu cha, mẹ của trẻ có đăng ký kết hôn). Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực. Như vậy Nghị định 158 chỉ quy định, trường hợp trẻ sinh trong cơ sở y tế thì khi đăng ký khai sinh thủ tục bắt buộc phải có giấy chứng sinh, không quy định các giấy tờ khác thay thế giấy chứng sinh. Tuy nhiên thực tế đã nảy sinh trường hợp không nằm trong quy định.

Ngày 9.6.2010, chị Đinh Thị Phúc đến UBND xã Tân Dương, huyện Lai Vung, Đồng Tháp đăng ký khai sinh cho con là Nguyễn Đinh Phú Quý sinh ngày 6.12.2009 tại Bệnh viện đa khoa thị xã Sa Đéc. Theo chị Phúc, khi sinh con tại Bệnh viện đa khoa thị xã Sa Đéc có giấy chứng sinh do bệnh viện cấp, nhưng trên đường về nhà chị đã làm mất giấy chứng sinh của con nên không thể làm khai sinh. Về phía Bệnh viện thì không thể cấp lại giấy chứng sinh cho con chị được. Nghị định 158 chỉ quy định trường hợp nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực. Trường hợp con chị Phúc sinh trong bệnh viện nhưng mất giấy chứng sinh, cơ quan hộ tịch không biết có thể cho đăng ký khai sinh hay không? Nếu đăng ký khai sinh thì giấy tờ nào sẽ thay thế giấy chứng sinh? Cuối cùng, cán bộ Tư pháp – Hộ tịch xã phải cho chị Phúc làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực để giải quyết việc đăng ký khai sinh cho con chị.

Continue reading

BÀN VỀ THẨM QUYỀN XÁC ĐỊNH CHA, MẸ CHO CON

TS. LÊ THU HÀ – Học viện tư pháp

1. Theo chị Phan Thị Yến (sinh năm 1984), năm 2003, chị và anh Lê Văn Thanh (sinh năm 1980) chung sống với nhau như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn, không được cha mẹ anh Thanh đồng ý. Mặc dù không được bố mẹ anh Thanh đồng ý, chị Yến và anh Thanh vẫn về sống chung với gia đình chồng. Đến ngày 31/01/2005 chị Yến sinh bé gái Lê Yến Ngọc. Do không có đăng ký kết hôn nên chị Yến không làm được khai sinh cho bé Ngọc.

Ngày 24/02/2006, anh Thanh bị tai nạn giao thông chết. Tháng 5 năm 2006, chị Yến có đơn ra Tòa án yêu cầu Tòa án xác định anh Thanh là cha cho cháu Lê Yến Ngọc. Bố mẹ anh Thanh cũng thừa nhận cháu Lê Yến Ngọc là con đẻ của anh Thanh, là cháu nội của ông bà. Theo Điều 65 luật hôn nhân và gia đình năm 2000, con có quyền xin nhận cha, mẹ của mình, kể cả trong trường hợp cha, mẹ đã chết.

Trong trường hợp cụ thể của chị Yến là yêu cầu xác định anh Thanh (đã chết) là cha cho bé Ngọc là một yêu cầu chính đáng, được pháp luật thừa nhận. Nhưng yêu cầu của chị Ngọc có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân hay không?

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định Tòa án có thẩm quyền giải quyết trường hợp xác định con theo quy định tại Điều 64: Người không được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó là con mình. Người được nhận là cha, mẹ của một người có thể yêu cầu Tòa án xác định người đó không phải là con mình.

Đối với trường hợp nhận cha, mẹ, con khác, Luật hôn nhân và gia đình chỉ quy định quyền được yêu cầu mà không quy định cụ thể thẩm quyền giải quyết. Vấn đề này được quy định tương đối chi tiết trong Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27-12-2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (Nghị định số 158/2005 có hiệu lực từ ngày 01/04/2006, thay thế nghị định số 83/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của chính phủ về đăng ký hộ tịch).

Mục 6, Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, tại Điều 32 Nghị định 158/2005/NĐ-CP quy định điều kiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con:

Continue reading

THU HỒI, HỦY BỎ GIẤY KHAI SINH NÀO LÀ HỢP LÝ?

NGUYỄN THANH XUÂN

Điều 78 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27.12.2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp huyện trong quản lý nhà nước về hộ tịch. Theo đó, UBND cấp huyện thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, có nhiệm vụ và quyền hạn ra Quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp trái với quy định tại Nghị định 158. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết việc thu hồi và hủy bỏ giấy tờ hộ tịch cấp trái quy định pháp luật đã dẫn đến một số khó khăn cho cán bộ hộ tịch và người dân.

Tháng 7.1991, ông Võ Thành Lâm đến UBND xã L.T, huyện L.V, tỉnh Đồng Tháp đăng ký khai sinh cho con là Võ Thành Son với năm sinh 1991. Tháng 5.1997 ông lại đến UBND xã L.T đăng ký tiếp cho con ông một giấy khai sinh nữa với năm sinh năm 1990. Hiện tại Võ Thành Son có hai bản chính giấy khai sinh với hai năm sinh khác nhau là 1990 và 1991. Xuất phát từ việc đăng ký giấy khai sinh thứ hai với năm sinh 1990, con ông Lâm đã xác lập các hoạt động học tập, đăng ký các giấy tờ nhân thân của mình như chứng minh nhân dân, hộ khẩu gia đình… với năm sinh là năm 1990. Tháng 3.2009, ông Võ Thành Lâm đến UBND huyện L.V, Đồng Tháp yêu cầu hủy bỏ giấy khai sinh đăng ký năm 1991 với lý do con ông có hai giấy khai sinh và chỉ sử dụng giấy khai sinh đăng ký năm 1997. Xem xét hồ sơ học tập cùng các giấy tờ nhân thân khác của Võ Thành Son sử dụng năm sinh  1990, UBND huyện L.V ra Quyết định thu hồi, hủy bỏ giấy khai sinh đăng ký năm 1991 để đương sự có thể sử dụng giấy khai sinh đăng ký năm 1997 cho phù hợp với các giấy tờ nhân thân.

Về sự việc này, nhiều ý kiến cho rằng, UBND huyện L.V ra Quyết định thu hồi, hủy bỏ giấy khai sinh đăng ký năm 1991 của Võ Thành Son là không đúng quy định của pháp luật về đăng ký và quản lý hộ tịch. Theo quy định tại Điểm k, Khoản 1, Điều 78 Nghị định 158, UBND cấp huyện có quyền ra quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do UBND cấp xã cấp trái với quy định.

Continue reading

NHỮNG NẺO ĐƯỜNG LẮT LÉO CỦA . . . THỤ TINH ỐNG NGHIỆM

LÝ MẠC

Với những cặp vợ chồng hiếm muộn, thụ tinh trong ống nghiệm (TTON) là cứu cánh cho họ, đem lại niềm vui làm mẹ, làm cha chính đáng trong cuộc đời con người. Tuy nhiên, khi công nghệ càng cao, có thể can thiệp vào cuộc sống của con người thì cùng với đó lại nảy ra những mặt trái ngoài ý muốn, ngoài pháp luật cũng như phi nhân đạo.

Tuổi cao thì… xuất ngoại

Theo luật pháp Việt Nam, các trường hợp làm TTON thì qui định của người phụ nữ phải dưới 45 tuổi. Thực tế cho thấy những vướng mắc mà các bệnh viện hay gặp nhiều nhất chính là tuổi tác của người phụ nữ: do lập gia đình trễ, do tái hôn, do không biết đến phương pháp TTON hoặc ngại ngần khi nhờ đến phương pháp này… Vì thế khi tìm đến với TTON, có rất nhiều phụ nữ đã qua ngưỡng 45 tuổi và bị từ chối cho dù ước nguyện và tình cảnh của họ là chính đáng.

Thế nên nhiều phụ nữ đã chọn giải pháp "xuất ngoại" để thực hiện TTON. Ở một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan hay xa hơn là Mỹ thì các qui định về tuổi tác "thoáng" hơn, thậm chí không cần giới hạn tuổi, miễn là cơ thể người phụ nữ còn cho phép việc tiến hành TTON (còn noãn và sức khỏe đủ để mang thai).

Theo thống kê, kể từ em bé TTON đầu tiên ra đời năm 1998 đến nay, thì cả nước đã có hơn 4.000 em bé sinh ra từ phương pháp này với nhu cầu tăng hàng năm từ 10/15%. Đó là chưa tính nhiều trường hợp sử dụng phương pháp này tại nước ngoài. Giờ đây, những người nghi ngờ về khả năng của công nghệ  TTON giờ gần như là thiểu số.

Tuy nhiên, qui định không phải là không có cơ sở. Theo các bác sĩ, thành công hay thất bại của một chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm phụ thuộc nhiều yếu tố, chủ yếu là chất lượng của trứng, phôi và sự chấp nhận của nội mạc tử cung với phôi làm tổ.

Ngoài việc tỷ lệ thành công khi làm TTON với những người phụ nữ cao tuổi là rất thấp, thì việc đặt thành công một ca TTON chỉ mới là một chặng đường. Sản phụ còn phải đối mặt với các vấn đề về sức khỏe, những rủi ro trong quá trình mang thai kéo dài trên dưới 40 tuần. Chưa kể, người cao tuổi còn tiềm ẩn rất nhiều bệnh tật mà khi mang thai mới phát hiện ra: tiểu đường, tim, cao huyết áp, sản giật, nhiễm độc thai nghén, nhiễm độc ối v.v…

Continue reading

ĐĂNG KÝ CHO EM XÁC ĐỊNH ĐƯỢC CHA ĐẺ NHƯNG BỊ MẸ ĐẺ BỎ RƠI: THIẾU HƯỚNG DẪN CỤ THỂ

PHẠM VĂN CHUNG

Theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì UBND cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”.

 

Tại điểm h khoản 1 Mục II Thông tư số 01/2008/TT-BTP, ngày 02.6.2008 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định về việc đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh bị bỏ rơi thì: “Trường hợp trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, có giấy tờ kèm theo ghi về thông tin của cha, mẹ, nhưng sau khi đã thực hiện việc thông báo theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP mà không tìm được cha, mẹ đẻ, thì những thông tin này chỉ ghi chú trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh; phần ghi về người mẹ và người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con được để trống”.

Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp, mặc dù chưa có đăng ký kết hôn nhưng lại xác định được cha đẻ, mẹ đẻ (có giấy chứng sinh) của trẻ em nhưng người mẹ bỏ trốn không nhận con. Vậy cha của đứa trẻ có được đứng tên khai sinh cho trẻ và phần khai về người mẹ bỏ trống có được hay không?. Bởi vì, trong trường hợp này, mặc dù xác định được mẹ đẻ (có giấy chứng sinh xác định) nhưng người mẹ lại bỏ trốn và không nhận con. Vấn đề này giải quyết như thế nào?.

Ví dụ sau đây minh chứng cụ thể: Anh Nguyễn Văn A quan hệ với chị Nguyễn Thị B, giữa hai người chưa có Giấy đăng ký kết hôn. Ngay sau khi sinh con (lấy tạm tên là cháu H)- có giấy chứng sinh, chị B bỏ trốn, đến nay không tìm thấy. Cháu H được bố mẹ của anh A đưa về nuôi và thừa nhận là cháu ruột của mình, anh A cũng thừa nhận cháu H là con đẻ của mình. Nay cháu H đã tròn 01 tuổi nhưng chưa được đăng ký khai sinh. Lý do, là gia đình anh A, muốn anh A là cha đẻ, phần khai trong Giấy khai sinh của cháu H và phần khai của người mẹ là bỏ trống. Nhưng theo quy định của pháp luật hiện hành thì việc này là không thể, vì đây không phải là trường hợp trẻ bị bỏ rơi và không thuộc trường hợp là không xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của trẻ em. Continue reading

TRANH CHẤP VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON: "TRUY NHẬN" CHA SAU 20 NĂM

MINH TRÍ

Phường ra quyết định xác nhận cha cho con nhưng tòa bác vì cho rằng làm không đúng. Nếu sự xác nhận là tự nguyện và không có tranh chấp thì phường được quyền công nhận.

Đang mang thai cô S. hơn bảy tháng nhưng giữa năm 1986, mẹ cô vẫn quyết định ly hôn. Dù cha cô không đồng ý vì vợ đang có mang nhưng cuối cùng TAND quận 4 (TP.HCM) vẫn cho người mẹ được như ý. Hai tháng sau, cô S. được sinh ra và được đăng ký khai sinh tại UBND phường 16, quận 4. Trong giấy khai sinh bỏ trống phần người cha. Năm 1991, người cha mất nhưng mẹ S. không hay biết…

Phường công nhận, tòa không chịu

Năm 2007, mẹ cô S. đến UBND phường 16, tình cờ phát hiện thông báo cho biết cha cô chết để lại căn nhà nhưng không có người thừa kế. Biết đây là sự nhầm lẫn, bà vội vàng vào phường hỏi và làm thủ tục nhận cha cho con. Ngày 6-12-2007, UBND phường đã ra quyết định công nhận cha cho S. Biết được tin này, vài người em của cha S. đã khởi kiện ra tòa quận 4 yêu cầu hủy quyết định công nhận này của phường.

Continue reading

TRANH CHẤP XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON: XÁC NHẬN CHA ĐÃ CHẾT LÀM SAO CHO ĐÚNG?

ÁI PHƯƠNG

Năm 1991, bà N. (Bình Trị Đông B, quận Bình Tân) có chung sống như vợ chồng với ông T. Sau đó, vì mâu thuẫn nên bà ra khỏi nhà khi đang mang thai. Đứa bé trai sinh năm 1993, được mang họ mẹ. Sau đó, ông T. kết hôn với người khác có hai đứa con trai và ly hôn vào năm 2003.

Vợ cũ phủ nhận con riêng của chồng

Cuối năm 2005, ông T. đột ngột qua đời nên hai mẹ con bà N. trở về dự đám tang. Cháu bé được bà con bên nội coi là cháu đích tôn. Họ lập biên bản xác nhận cháu là con của ông T. và hứa chia cho cháu một phần di sản thừa kế. Trên cơ sở này, bà N. xin chính quyền xác nhận ông T. là cha cháu bé. Bà nộp hồ sơ ngày 13-4-2006 và bốn ngày sau thì được UBND phường Bình Trị Đông B, quận Bình Tân ra quyết định công nhận cha, con.

Người vợ đã ly hôn của ông T. không đồng ý với quyết định trên. Tuy nhiên, UBND phường đã bác đơn khiếu nại của bà. Thấy vậy, bà đã khởi kiện đến TAND quận Bình Tân để yêu cầu hủy quyết định trên. Ngày 31-7-2007, TAND quận Bình Tân đưa vụ án ra xét xử.

Continue reading

KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI: BI KỊCH TRONG MỘT VỤ "ĐẺ MƯỚN" Ở ẤN ĐỘ

PHAN ANH

DÂN TRÍ – Tương lai của một bé gái 12 ngày tuổi được một phụ nữ Ấn Độ sinh ra đang trở nên mù mịt khi cặp vợ chồng người Nhật, những người đi thuê “đẻ mướn”, đã ly hôn.

Manji Yamada chào đời vào ngày 25/7 vừa qua sau khi các bác sỹ dùng tinh trùng của người đàn ông Nhật Bản, Ikufumi Yamada, 45 tuổi, thụ tinh cho trứng được một phụ nữ Ấn Độ “hiến tặng”, rồi cấy ghép vào tử cung của một phụ nữ “đẻ mướn” Ấn Độ khác.

Nhưng ông Ikufumi Yamada lại ly dị vợ sau đó và người vợ cũ của ông không còn muốn có em bé đó nữa.

Theo như ban đầu, em bé sau khi được sinh ra, có quốc tịch Ấn Độ, sẽ được cha đẻ người Nhật nhận nuôi. Tuy nhiên, luật pháp Ấn Độ lại không cho phép một người cha độc thân nhận nuôi con gái.

“Phức tạp ở chỗ, người cha này mới ly dị vợ, và luật cho nhận con nuôi của Ấn Độ không cho phép đàn ông độc thân nhận nuôi bé gái”, Sanjay Arya, vị bác sỹ hiện đang chăm sóc bé Manji cho biết.

Continue reading

KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT NƯỚC NGOÀI: ẤN ĐỘ KHÔNG THỪA NHẬN CÁC HỢP ĐỒNG ĐẺ THUÊ

HỒNG CẨM (Theo Khaleej Times, Gulf Times, Times of India)

Theo luật Ấn Độ, người độc thân không được nhận con nuôi. Cuối tháng 7-2008, bé gái Manji Yamada chào đời trong một bệnh viện ở Ấn Độ. Tương lai của bé rồi sẽ không bình thường như bao trẻ khác bởi cha mẹ ruột của bé nhờ người mang thai thuê nhưng sau đó họ lại ly hôn nên có nguy cơ bé sẽ không có cha và mẹ.

Ly hôn phải mất con

Cha mẹ ruột của bé Manji Yamada là đôi vợ chồng người Nhật Ikufumi Yamada. Tháng 11-2007, họ đến Ấn Độ ký hợp đồng với một cô gái Ấn Độ nhờ cô này đẻ thuê.

Cô gái Ấn Độ mang thai từ trứng của một phụ nữ Ấn Độ khác kết hợp với tinh trùng của ông Ikufumi Yamada. Hai tuần trước khi bé Manji Yamada ra đời, hai vợ chồng người Nhật ly hôn.

Cô gái Ấn Độ sinh xong đã bỏ bé lại bệnh viện đi mất. Vợ cũ của ông Ikufumi Yamada tỏ thái độ không muốn nhận nuôi con. Ông Ikufumi Yamada dù rất muốn mang con về Nhật nuôi nhưng lại không thể vì chiếu theo luật Ấn Độ, người đàn ông đang trong tình trạng độc thân không được phép nhận con nuôi.

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn