admin@phapluatdansu.edu.vn

NGHIÊN CỨU VỀ CHIM HÓT: Suy nghĩ về sự đa dạng của khoa học

KEVIN OMLAND, EVANGELINE ROSE & KARAN ODEM* (Nguyễn Trịnh Đôn dịch)

Tình hình nghiên cứu chim biết hót đưa ra chứng cứ mạnh mẽ cho việc người làm nghiên cứu là ai, từ đâu đến, và những trải nghiệm của họ có ảnh hưởng như thế nào đến công việc khoa học mà họ làm. Các nhóm nghiên cứu đa dạng hơn sẽ có thể đặt ra những câu hỏi cũng đa dạng hơn, tận dụng những phương pháp khác lạ hơn, và tìm cách xử lý vấn đề từ những góc độ rộng lớn hơn.

Continue reading

TÌNH HUỐNG TỐ TỤNG: Giải quyết yêu cầu không công nhận quan hệ vợ chồng là vụ án dân sự hay việc dân sự?

NCS. HUỲNH QUANG THUẬN – Đại học Luật TP.HCM

Khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (LHN&GĐ năm 2014) quy định: “Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định tại khoản này thì không có giá trị pháp lý”.

Điều 53 LHN&GĐ năm 2014 quy định: Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn Continue reading

Những biến đổi của gia đình Việt Nam hiện nay và MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH

PGS.TS. TRẦN THỊ MINH THI – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới, đình, Viện HLKHXH Việt Nam

Trước tác động của bối cảnh mới hiện nay, các giá trị gia đình Việt Nam đang có những biến đổi nhất định cần được nhận biết, đánh giá, từ đó đưa ra những khuyến nghị chính sách phù hợp nhằm xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, góp phần vào thành công của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.

Xu hướng biến đổi giá trị đạo đức, tâm lý và tình cảm của gia đình Việt Nam đương đại

Trong những thập niên qua, gia đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển quan trọng, từ gia đình truyền thống sang gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn. Quá trình hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập và giao lưu văn hóa làm xuất hiện những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình Việt Nam.

Gia đình là giá trị quan trọng hàng đầu

Người dân Việt Nam vốn coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí, địa vị, tín ngưỡng tôn giáo và chính trị (Biểu 1). Khái niệm gia đình ở đây là mô hình gia đình truyền thống được xây dựng trên cơ sở hôn nhân.

Continue reading

ĐẬP VỠ TRẦN ĐỊNH KIẾN

 ĐẶNG THỊ HẢI HÀ

Bất bình đẳng giới luôn được hiểu là khoảng cách về trình độ và vị thế giữa phụ nữ và đàn ông. Thế nhưng các nghiên cứu quốc tế lại cho rằng sự tự tin mới là thứ phụ nữ thiếu và chính nó khiến họ thua thiệt so với đàn ông.

Hàng chục nghiên cứu toàn cầu về phụ nữ và nữ quyền đã chỉ ra rằng các tập đoàn hàng đầu thế giới luôn vượt mặt đối thủ cạnh tranh nhờ tuyển dụng thành công các vị trí lãnh đạo và nhân viên nữ. Chúng ta có kiến thức, kỹ năng vượt bậc ở mọi khía cạnh để hoàn thành công việc ở mức xuất sắc. Thế nhưng chúng ta vẫn lẹt đẹt ở hàng dưới trong danh sách các lãnh đạo cấp cao, năm thì mười họa mới có mặt ở top dẫn đầu. Con số tổng hợp cụ thể thì hiếm khi ở tình trạng tăng đều. Nhân viên nữ mới vào nghề thì vẫn khó có thể thoát khỏi cảnh pha trà mở cửa đón khách. Nửa thế kỉ trôi qua, con đường sự nghiệp của phụ nữ vẫn rất khác so với đàn ông? Tại sao vậy?

Phụ nữ tự ti như thế nào?

​Phương là một sinh viên tốt nghiệp xuất sắc tại một trường đại học có tiếng ở châu Âu. Cô luôn đạt điểm giỏi trong suốt thời gian học và luận văn tốt nghiệp của cô luôn nằm trên giá sách của vị giáo sư hàng đầu về quản trị kinh doanh. Bất kể khi nào có khách ghé thăm từ Việt Nam ông cũng tự hào giới thiệu về cô và đề tài tốt nghiệp của cô. Thế nhưng khi có cơ hội thực tập và làm việc tại một tập đoàn toàn cầu rất lớn ở Bỉ, cô đã rất khổ sở đắn đo và rồi quyết định trở về Việt Nam, thay vì tiếp nhận công việc trong mơ. Lý do căn bản là sau một biến cố về gia đình, cô không tự tin mình có thể vừa thành công trong công việc vừa làm một người mẹ tốt. Cô trở về nhà để tiện nhờ ông bà chăm sóc con. Công việc đầu tiên cô có được ở Việt Nam cũng lại qua vị giáo sư nọ giới thiệu và bảo lãnh uy tín. Cho đến bây giờ sau hơn 5 năm trở về, cô vẫn vật vã với khả năng cân bằng cuộc sống riêng và công việc.​

Continue reading

ỨNG XỬ VỚI KHÁC BIỆT/ NGƯỜI “KHÁC LẠ”: Quan điểm của cộng đồng dân tộc thiểu số về người có xu hướng tính dục và bản dạng giới thiểu số

ĐỖ QUỲNH ANH, TRẦN NGỌC LINH & HOÀNG NGỌC AN

Cách tiếp cận của nghiên cứu

Khái niệm về “căn tính” trong Nhân học

Các nhóm phân loại con người theo các đặc tính (traits) và căn tính (identities) không được tạo ra bởi tự nhiên mà được con người tạo ra để đơn giản hóa sự phức tạp trong sự đa căn tính (multiple identities) của con người và trong các hiện thực đa chiều (multiple realities)5. Trong một thảo luận về sự hạn chế của chủ nghĩa kiến tạo xã hội (social constructionism), Epstein (1987) cho rằng ‘căn tính’ được xác định trong mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể xã hội, là kết quả của quá trình liên tục tìm kiếm ‘căn tính’ nhằm tìm kiếm một sự liên hệ giữa cá nhân với đám đông và chính danh hóa (legitimate) vị thế của họ trong xã hội. Epstein đã tổng kết hai cách định nghĩa về căn tính: một cách giải thích nhìn nhận căn tính như là bản chất (essential) của con người, do đó thuộc về nội tâm (intrapsychic); cách còn lại theo luận điểm của chủ nghĩa kiến tạo xã hội cho rằng căn tính là các nhãn (labels) hoặc vai trò (roles) được ‘tập nhiễm’ (acquired) vào mỗi cá nhân. Cách hiểu căn tính thuộc về nội tâm coi căn tính như một đặc tính cố định và bền vững của một người, mô tả bản chất thật sự của con người. Trong khi đó, định nghĩa còn lại cho rằng căn tính là sự nhập tâm (internalization) hoặc tiếp nhận có ý thức các nhãn và vai trò đã được áp đặt hoặc xây dựng trong quá trình xã hội hóa.

Continue reading

VIETNAM CONTEXT ANALYSIS REPORT ON HUMAN RIGHTS AND HEALTH SITUATION OF VIETNAMESE LGBT COMMUNITY AND MSM/TG (2017)

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ISEE, ICS & HẢI ĐĂNG

Relevant economic situation related to LGBT, economic and employment situation of LGBT, and economical context factors that play a role in the status quo / change in this situation

Starting in 1986, Vietnam gradually shifted from a centrally planned system to a socialist market economy. According to the World Bank, Vietnam is the second largest recipient of remittances in Southeast Asia, with $11 billion. Vietnam has been one of the two world leaders of rice exporter for a long time. Vietnam’s leading export manufactured product since 2013 has been electronics. Foreign technology company have contributed a significant percentage to GDP of Vietnam, Samsung on itself contributing for than 20% total export of Viet Nam. Young people, including LGBT people, tend to move and work in major cities like Ho Chi Minh or Hanoi which created a very high density of population in these cities.

Relevant social situation related to LGBT, and social context factors that play a role in the status quo / change in this situation

Vietnam has a young population of which number of people of working age (between 15-64) make up two thirds (69%) of the population. Vietnamese traditional values are strongly influenced by Confucius and Taoist ideologies, although most Vietnamese do not call it by name. The major religion of Vietnam is Buddhism (7.9%), but most of the population are atheist (81.8%) which makes Vietnam one of the most non-religious country in the world.6 However, the Vietnamese culture has mixed its religious with traditional spirit worship and folk practices. Many scholars also suggest old widespread patterns of cross-gender spirit mediums in Vietnam, such as “hau dong” (spirit worshiping) where people with mixed spirit of men and women are considered be able to communicate with the gods.

Continue reading

KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT CỦA CỘNG HÒA ITALIA VÀ VƯƠNG QUỐC HÀ LAN TRONG LĨNH VỰC LAO ĐỘNG – VIỆC LÀM, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. CỘNG HÒA ITALIA

Cải cách thị trường lao động

Thị trường lao động của Italia đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức do tác động của khủng hoảng kinh tế và vấn đề nợ công. Số lượng doanh nghiệp vừa nhỏ chiếm tỷ lệ cao, tính linh hoạt của loại hình doanh nghiệp này đã bị hạn chế do sự thay đổi chậm chạp của các chính sách quản lý vĩ mô dẫn đến nhiều hệ lụy như: Cơ hội việc làm suy giảm; tính ổn định và an toàn của việc làm bị ảnh hưởng mạnh; khả năng tiếp cận thị trường và việc làm của người lao động ngày một khó khăn hơn…

Italia đang đẩy mạnh quá trình cải cách chính sách về lao động, thị trường lao động và an sinh xã hội. Việc cải cách tập trung nhiều đến các vấn đề về tuổi nghỉ hưu và tính bền vững tài chính Quỹ hưu trí bởi tác động của tỷ lệ già hóa tăng nhanh, tỷ lệ đóng hưởng bảo hiểm hưu trí chưa hợp lý, tỷ lệ thất nghiệp cao (khoảng 9%), tỷ lệ lao động trẻ khá lớn (chiếm 40%)… và đời sống xã hội biến động do khủng hoảng kinh tế trầm trọng[1].

Quá trình cải cách tập trung vào sửa đổi pháp luật lao động, trong đó chú trọng hợp đồng lao động dài hạn linh hoạt, đa dạng các chế độ an sinh xã hội nhằm mục tiêu xây dựng thị trường lao động ổn định và bảo vệ người lao động tốt hơn. Nội dung cốt lõi của cải cách nhằm hướng tới bảo đảm an sinh xã hội và nhấn mạnh bảo hiểm thất nghiệp.

Đối với bảo hiểm thất nghiệp, Chính phủ đã đưa ra các loại hình đa dạng hơn (bảo hiểm thất nghiệp thông thường, bất thường, khi bị sa thải và ngoại lệ) kèm theo là những điều kiện, yêu cầu cụ thể ràng buộc chặt chẽ về loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp, ngành nghề … thay đổi tùy thuộc vào điều kiện thực tế từng năm. Mục tiêu của chế độ này là tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ và tiếp cận dịch vụ, hỗ trợ đào tạo lại, trong đó quan tâm đến lao động nữ.

Continue reading

CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHƯƠNG TRÌNH DÂN SỐ TẠI NHẬT BẢN

GS. SHUNICHI INOUE – Trường Cao đẳng Khoa học và Nhân văn (Đại học Nihon, Tokyo)

Không giống như những quốc gia Đông Á khác, Chính phủ Nhật Bản không bảo trợ cho chương trình kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ) trong suốt quá trình quá độ dân số, trừ một khoảng thời gian rất ngắn.

Theo kết quả điều tra khảo sát định kỳ của Ban Dân số Liên Hiệp Quốc về những chính sách và chương trình dân số được ban hành chính thức, hành động cụ thể duy nhất của Chính phủ Nhật Bản trong việc tác động đến các xu thế dân số là nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng tại Nhật Bản (Ban Dân số Liên Hiệp Quốc, 1995). Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu suy luận rằng Chính phủ không quan tâm đến các vấn đề dân số hay không hoạch định chính sách dân số.

Cũng như các quốc gia khác, những đặc trưng dân số của Nhật Bản có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế, và Chính phủ đóng một vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển này. Vậy thì tại sao Chính phủ lại không bảo trợ cho chương trình KHHGĐ? Tại sao mức sinh lại giảm tại Nhật Bản trong khi thiếu một chương trình như vậy? Những biến động dân số đã tác động đến phát triển kinh tế như thế nào và Chính phủ có vai trò gì trong việc định hướng các xu thế dân số để đáp ứng các nhu cầu kinh tế?

Chương này tập trung kiểm điểm từng bước phát triển của các chính sách dân số Nhật Bản và các mối quan hệ tương tác giữa những chính sách này với phát triển kinh tế trong thời kỳ hiện đại hoá, đặc biệt là sau Đại chiến Thế giới thứ II.

Continue reading

VỀ TUỔI NGHỈ HƯU CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DỰ THẢO SỬA ĐỔI BỘ LUẬT LAO ĐỘNG NĂM 2012

PGS TS. LÊ THỊ HOÀI THU Khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội

Tuổi nghỉ hưu theo pháp luật hiện hành

Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012, Luật BHXH (sửa đổi), tuổi nghỉ hưu của người lao động thuộc lực lượng dân sự tại Việt Nam hiện nay được chia thành các nhóm sau:

Nhóm 01: Người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi.

Nhóm 02: Người lao động có đủ 15 năm làm việc ở vùng có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên hoặc có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế ban hành (nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi).

Nhóm 03: Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%:

– Nếu nghỉ hưu năm 2017: Nam đủ 52 tuổi, nữ đủ 47 tuổi;

– Nếu nghỉ hưu năm 2018: Nam đủ 53 tuổi, nữ đủ 48 tuổi;

– Nếu nghỉ hưu năm 2019: Nam đủ 54 tuổi, nữ đủ 49 tuổi;

– Nếu nghỉ hưu từ năm 2020 trở đi: Nam đủ 55 tuổi, nữ đủ 50 tuổi;

Continue reading

TỔNG QUAN BÁO CÁO CỦA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC (UNDP) VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI NĂM 2015 – VIỆC LÀM VÌ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI

Screenshot (9)LỜI NÓI ĐẦU

Hai mươi lăm năm trước, Báo cáo phát triển con người đầu tiên năm 1990 ra đời với một quan niệm giản đơn: phát triển chính là mở rộng những lựa chọn của con người— tập trung chủ yếu vào sự thịnh vượng của đời sống con người thay vì đơn thuần là sự thịnh vượng của các nền kinh tế. Việc làm là nền tảng cơ bản cho sự thịnh vượng của các nền kinh tế cũng như sự thịnh vượng của đời sống con người nhưng thường bị đóng khung trong các thuật ngữ kinh tế hơn là các thuật ngữ về phát triển con người. Báo cáo phát triển con người năm 2015 vượt ra khỏi quy ước đó bằng cách kết nối trực tiếp vấn đề việc làm với sự thịnh vượng của đời sống con người.

Báo cáo này mở đầu bằng một câu hỏi cơ bản — việc làm thúc đẩy phát triển con người như thế nào? Báo cáo đưa ra một cách nhìn rộng về vấn đề việc làm, vượt ra ngoài phạm vi các công việc làm thuê và xem xét đến cả những hoạt động như chăm sóc không được trả lương, hoạt động tình nguyện và hoạt động mang tính sáng tạo —tất cả đều đóng góp vào sự thịnh vượng của đời sống con người.

Báo cáo nhấn mạnh tiến bộ phát triển con người đầy ấn tượng trong một phần tư thế kỷ vừa qua. Ngày nay, con người sống lâu hơn, nhiều trẻ em được đến trường và nhiều người được tiếp cận với nước sạch và các điều kiện vệ sinh cơ bản hơn. Thu nhập bình quân đầu người trên thế giới tăng lên, và tỷ lệ nghèo giảm xuống, kết quả là mức sống của rất nhiều người được nâng cao. Cách mạng kỹ thuật số kết nối con người giữa các quốc gia và các xã hội với nhau. Việc làm đóng góp vào tiến bộ này thông qua xây dựng năng lực của con người. Việc làm bền vững đem lại cho con người cảm nhận về phẩm giá và cơ hội tham gia đầy đủ vào đời sống xã hội.

Continue reading

KHOẢNG CÁCH GIỚI TOÀN CẦU: NHIỀU VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC CẢI THIỆN

  PHẠM HIỆP

Việt Nam năm 2015 đứng thứ 83, vị trí ở vào mức độ trung bình trên thế giới. So với năm 2007 là năm đầu tiên tham gia vào xếp hạng Khoảng cách giới của WEF, Việt Nam tụt đến 41 bậc. Việc tụt hạng này, một phần là vì WEF mở rộng số nước đánh giá; nhưng phần khác cũng vì các chỉ số thành phần của Việt Nam gần như không tăng, thậm chí giảm đôi chút trong gần 10 năm qua trong khi cả thế giới đều có tăng trưởng đáng kể. Mặc dù vẫn biết, không có bảng xếp hạng nào là toàn diện, rõ ràng đây vẫn là vấn đề để các nhà chính sách vĩ mô ở nước ta cần đặc biệt quan tâm trong thời gian tới. 

Những năm qua, nhiều tổ chức, nhà nghiên cứu cũng đã cố gắng tìm cách đo đạc mức độ bình đẳng giới ở nhiều cấp độ từ quốc gia cho đến quốc tế, hoặc theo từng ngành/lĩnh vực cụ thể. Trong số đó, nổi bật là báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum – WEF) với tên gọi Khoảng cách giới toàn cầu (Global Gender Gap), được công bố hằng năm.

Bài viết này tóm tắt một số nội dung chính Báo cáo 2015 của tổ chức này, được xuất bản trung tuần tháng hai vừa qua.

Các chỉ số

Để đo lường vấn đề bình đẳng giới, các nhà nghiên cứu từ WEF đưa ra bốn chỉ số chính bao gồm: Sự tham gia và Cơ hội trong lĩnh vực kinh tế (Economic Participation and Opportunity), Thành tựu giáo dục (Educational Attainment), Sức khoẻ và sự sống (Health and Survival) và Phân quyền chính trị (Political Empowerment). Bốn chỉ số này lại được cấu thành từ các chỉ số con nhỏ hơn (tổng cộng có 14 chỉ số con), ví dụ Tỷ lệ sinh nữ trên nam (thuộc chỉ số Sức khoẻ và sự sống) hoặc Tỷ lệ tổng số đại biểu nữ trong Quốc hội trên tổng số đại biểu nam (thuộc chỉ số Phân quyền chính trị). Các chỉ số con này có thể do WEF trực tiếp tiến hành lấy dữ liệu hoặc lấy lại dữ liệu từ báo cáo của các tổ chức nghiên cứu/phi chính phủ uy tín khác như UNESCO, tổ chức lao động quốc tế ILO trong 2015 hoặc ở năm gần nhất mà dữ liệu sẵn có.

Continue reading

Mấy câu hỏi gửi các đại biểu ỦNG HỘ LẬP “KHU NHẠY CẢM”

NGUYỄN ANH ĐỨC – Sinh viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Trước luồng quan điểm ủng hộ có khá nhiều “ý” được đưa ra trong khi những quan điểm phản bác chỉ xoay quanh yếu tố đạo đức, thuần phong mĩ tục (vốn không thể thuyết phục). Tôi xin nêu ra một số quan điểm phân tích từ khía cạnh pháp lý như sau [1]:

– Thứ nhất, nếu nói rằng: “Ở ta không muốn công nhận, không thích công nhận nhưng thực tế lan tràn khắp nơi và bất lực không thể ngăn chặn được, hiện trạng ngày càng tăng”. Với cách lập luận như vậy, chúng ta buộc phải liên tưởng đến những “thực trạng xã hội đang lan tràn khắp nơi” và “thuộc về bản chất của xã hội” như ma túy, buôn lậu, giết người, tham nhũng – lãng phí, chạy chức quyền, nhẹ hơn là học gạo – học vì điểm, cũng đang hoành hành và chưa có biện pháp giải quyết phù hợp ở Việt Nam. Điều đó, theo cách suy nghĩ của các đại biểu ủng hộ lập khu nhạy cảm, thì cũng nên và cần phải lập những “khu” riêng dành cho các hoạt động đã nêu trên. Lúc đó ta sẽ có phố buôn lậu, phố làm hàng giả – nhái, phố dành riêng cho các cán bộ tham nhũng, nhận hối lộ,…..Đây là áp dụng nguyên tắc bình đẳng cho “các hiện tượng xã hội thực tế”.

– Thứ hai, cho rằng: “Những người trực tiếp hành nghề không được bảo vệ, bị các ma cô, đầu gấu bắt nạt, ức hiếp, không được bảo vệ sức khoẻ từ đó ảnh hưởng sức khoẻ cộng đồng vì không có giám sát”. Ở đây cần đặt ra câu hỏi: Sau khi lập khu thì những người được gọi là “ma cô”, “đầu gấu” sẽ trở thành thất nghiệp được chăng?, “hợp pháp” – một ngôn từ mĩ miều được dùng để dành cho lợi ích của các cô gái hay cho “ma cô, đầu gấu” thành “nhân viên kinh doanh”? Và bảo vệ sức khỏe của các cô gái hành nghề sẽ được thực hiện đến đâu, khi xét về mặt sinh lý, đã qua hết cái thời “đỉnh cao phong độ” lúc mới còn ở tuổi “ba mươi mấy”. Điều chắc chắn là ngành nghề nào cũng có “hạn sử dụng”, và có thể lập luận rằng sau khi nghỉ lao động thì phải được hưởng các trợ cấp xã hội, như bảo hiểm chẳng hạn. Nhưng câu chuyện sẽ khác giữa những lao động cống hiến đến năm 55, 60 tuổi với những lao động chỉ có thể cống hiến (bằng nghề chính) đến những năm ở tuổi đời chưa tròn bốn mươi chứ?

Continue reading

BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH, NGƯỜI CHUYỂN GIỚI TRONG TƯ PHÁP HÌNH SỰ

THS. THÁI THỊ TUYẾT DUNG & VŨ THỊ THỦY

Ngày 19/7/2010, Ủy ban Quốc tế nhân quyền người đồng tính (International Gay and Lesbian Human Rights Commission – IGLHRC)[1] được thừa nhận có tư cách tư vấn cho Hội đồng Liên hiệp quốc, đã thúc đẩy những người đồng tính (NĐT) quyết định công khai giới tính của mình với mong muốn được thừa nhận các quyền cơ bản của họ. Đối với đa số những người đang sống trên trái đất này, đây là một thông tin đáng quan tâm, nhưng với cộng đồng NĐT, đây là một cái mốc lịch sử.[2]

Ở nước ta, trong thời gian gần đây, nhiều người đã công khai việc chuyển đổi giới tính (CĐGT) cũng như thừa nhận mình là NĐT cho thấy, xã hội đã bớt cái nhìn khắt khe, đồng thời hướng đến việc tôn trọng và công nhận họ như một thành tố bình đẳng trong xã hội.

Mặc dù chưa được Nhà nước thừa nhận, thực tiễn vẫn đặt ra những vấn đề pháp lý liên quan đến việc áp dụng các quy định của luật hình sự, luật tố tụng hình sự (TTHS) và luật thi hành án hình sự liên quan đến NĐT và người chuyển giới (NCG) như hành vi xâm phạm tình dục NĐT, NCG; hành vi mua dâm, môi giới mại dâm, chứa mại dâm đồng giới; hành vi chung sống như vợ chồng với NĐT, NCG hoặc các thủ tục về khám người, thi hành các biện pháp tạm giữ, tạm giam, thi hành án phạt tù đối với những người này.

1. Một số khái niệm liên quan đến người đồng tính và người chuyển giới

Giới (gender): được sử dụng không chỉ với con người mà còn sử dụng cho động thực vật khác, chỉ giống đực (masculine) và giống cái (feminine). Ở con người, giới hàm nghĩa biểu hiện về mặt hình thức, thực thể xã hội của nam (male) và nữ (female).

Tính hoặc giới tính (sex): ngoài sự bao hàm giới còn được bổ sung về mặt tâm lý học, ý thức và ý chí tính dục (gọi chung là xu hướng tính dục). Thông thường, người ta chia giới tính ra hai đối tượng dị tính: nam/đàn ông và nữ/đàn bà.

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d