admin@phapluatdansu.edu.vn

Mấy câu hỏi gửi các đại biểu ỦNG HỘ LẬP “KHU NHẠY CẢM”

NGUYỄN ANH ĐỨC – Sinh viên Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Trước luồng quan điểm ủng hộ có khá nhiều “ý” được đưa ra trong khi những quan điểm phản bác chỉ xoay quanh yếu tố đạo đức, thuần phong mĩ tục (vốn không thể thuyết phục). Tôi xin nêu ra một số quan điểm phân tích từ khía cạnh pháp lý như sau [1]:

– Thứ nhất, nếu nói rằng: “Ở ta không muốn công nhận, không thích công nhận nhưng thực tế lan tràn khắp nơi và bất lực không thể ngăn chặn được, hiện trạng ngày càng tăng”. Với cách lập luận như vậy, chúng ta buộc phải liên tưởng đến những “thực trạng xã hội đang lan tràn khắp nơi” và “thuộc về bản chất của xã hội” như ma túy, buôn lậu, giết người, tham nhũng – lãng phí, chạy chức quyền, nhẹ hơn là học gạo – học vì điểm, cũng đang hoành hành và chưa có biện pháp giải quyết phù hợp ở Việt Nam. Điều đó, theo cách suy nghĩ của các đại biểu ủng hộ lập khu nhạy cảm, thì cũng nên và cần phải lập những “khu” riêng dành cho các hoạt động đã nêu trên. Lúc đó ta sẽ có phố buôn lậu, phố làm hàng giả – nhái, phố dành riêng cho các cán bộ tham nhũng, nhận hối lộ,…..Đây là áp dụng nguyên tắc bình đẳng cho “các hiện tượng xã hội thực tế”.

– Thứ hai, cho rằng: “Những người trực tiếp hành nghề không được bảo vệ, bị các ma cô, đầu gấu bắt nạt, ức hiếp, không được bảo vệ sức khoẻ từ đó ảnh hưởng sức khoẻ cộng đồng vì không có giám sát”. Ở đây cần đặt ra câu hỏi: Sau khi lập khu thì những người được gọi là “ma cô”, “đầu gấu” sẽ trở thành thất nghiệp được chăng?, “hợp pháp” – một ngôn từ mĩ miều được dùng để dành cho lợi ích của các cô gái hay cho “ma cô, đầu gấu” thành “nhân viên kinh doanh”? Và bảo vệ sức khỏe của các cô gái hành nghề sẽ được thực hiện đến đâu, khi xét về mặt sinh lý, đã qua hết cái thời “đỉnh cao phong độ” lúc mới còn ở tuổi “ba mươi mấy”. Điều chắc chắn là ngành nghề nào cũng có “hạn sử dụng”, và có thể lập luận rằng sau khi nghỉ lao động thì phải được hưởng các trợ cấp xã hội, như bảo hiểm chẳng hạn. Nhưng câu chuyện sẽ khác giữa những lao động cống hiến đến năm 55, 60 tuổi với những lao động chỉ có thể cống hiến (bằng nghề chính) đến những năm ở tuổi đời chưa tròn bốn mươi chứ?

Continue reading

SÀN GIAO DỊCH BẤT ĐỘNG SẢN – Một trong những nội dung quản lý của Nhà nước đối với thị trường bất động sản

CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”

ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI – NĂM 2009

Thuộc nhóm chuyên nghành khoa học: XH2b

Họ và tên sinh viên: Văn Thị Anh

Giới tính: Nữ

Dân tộc: Kinh

Lớp: Dân sự K32B

Năm thứ:  2/ Số năm đào tạo: 4 năm

Khoa: Pháp luật Dân sự

Người hướng dẫn: Ts. Trần Quang Huy

 

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Bất động sản là một loại tài sản có vai trò vô cùng quan trọng của mỗi quốc gia. Nó là thành phần sống của xã hội loài người. Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường cũng đã kéo theo nền sản xuất hàng hoá bất động sản phát triển. Loại hàng hoá này được đem ra mua bán, trao đổi trên thị trường, từ đó hình thành nên thị trường bất động sản. Sự ra đời và phát triển của thị trường bất động sản đã có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế quốc dân.

Tuy nhiên do BĐS là loại hàng hoá có giá trị lớn và đặc tính TTBĐS là không hoàn hảo nên đã dẫn đến hiện trạng là: các giao dịch trên thị trường phần lớn là các giao dịch phi chính thức, hiện tượng đầu cơ trốn lậu thuế tạo ra những cơn sốt ảo gây tác hại to lớn cho nền kinh tế và sự quản lí yếu kém của các cơ quan nhà nước. Các cơ quan nhà nước chưa có những biện pháp quản lí TTBĐS hiệu quả nên không thể kiểm soát và điều tiết được thị trường…Bởi vậy mà thị trường BĐS của Việt Nam được các chuyên gia quốc tế đánh giá là thị trường không minh bạch.

Hiện nay cả thế giới khủng hoảng suy thoái kinh tế, một trong những yếu tố góp phần làm nên cuộc khủng khoảng là thị trường BĐS. Việt Nam cũng không nằm ngoài cuộc khủng hoảng này. TTBĐS Việt Nam bắt đầu khủng hoảng vào khoảng đầu năm 2008 và bây giờ bây giờ nó vẫn đang loay hoay tìm lối thoát.

Nhằm khắc phục những khuyết tật của thị trường và giúp nhà nước quản lí, điều tiết thị trường này để nó phát triển lành mạnh, ổn định hơn thì SGD BĐS ra đời là một điều tất yếu. Sự ra đời và phát triển của các SGD BĐS đã có ảnh hưởng rất lớn tới thị trường BĐS. Bên cạnh những tính năng ưu việt mà nó mang lại thì nó cũng có những tồn tại rất đáng lo ngại. Bởi, sự quản lí của nhà nước đối với các SGD BĐS này còn chưa chặt chẽ dẫn đến những việc làm sai phạm, phản tác dụng của các SGD BĐS. Vì vậy vấn đề quản lí của nhà nước đối với các SGD BĐS là vấn đề rất quan quan trọng và cấp thiết. Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này nên tôi đã chọn đề tài: ”Sàn giao dịch bất động sản – một trong những nội dung quản lí của nhà nước đối với thị trường bất động sản”.

Continue reading

BẢO HIỂM VIỆT NAM – Thực trạng và giải pháp phát triển

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NĂM 2003

SV THỰC HIỆN GV HƯỚNG DẪN
BÙI NHẬT ANH – K38 ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG TS. VŨ SĨ TUẤN

Lời mở đầu

Kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam bước sang một thời kỳ phát triển mới. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã đem lại nhiều thành tựu kinh tế – xã hội to lớn cho đất nước. Nhiều lĩnh vực kinh tế được đẩy mạnh, đời sống nhân dân cũng ngày càng được nâng cao. Trong quá trình phát triển đó, bảo hiểm đã và đang chứng minh được vai trò tích cực của mình đối với hoạt động sản xuất – kinh doanh nói riêng cũng như với cuộc sống nói chung. Đồng thời, bảo hiểm cũng đã trở thành một ngành kinh doanh giàu tiềm năng phát triển, thu hút rất nhiều lao động.

Ngành bảo hiểm nước ta mới thực sự bắt đầu phát triển từ cách đây khoảng 10 năm khi thế độc quyền kinh doanh bảo hiểm được xoá bỏ theo nghị định 100 CP được Chính phủ ban hành ngày 18/12/1993. Kể từ đó đến nay, ngành bảo hiểm đã có những bước tiến đáng kể và nếu được phát triển đúng hướng, ngành sẽ góp phần rất tích cực vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong thế kỷ mới. Việc tìm hiểu thực trạng tình hình kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam để từ đó, đưa ra được những giải pháp nhằm phát triển ngành bảo hiểm trong giai đoạn tới là rất cần thiết.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, và với lòng yêu thích môn học Bảo hiểm, em xin được chọn nghiên cứu đề tài “Bảo hiểm Việt Nam – thực trạng và giải pháp phát triển” cho bài khoá luận tốt nghiệp của mình, với nội dung:

Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm

Chương II: Thực trạng hoạt động bảo hiểm ở Việt Nam thời gian qua

Chương III: Một số giải pháp nhằm phát triển ngành bảo hiểm Việt Nam

Continue reading

Quy định của pháp luật Việt Nam về lãi suất trong hợp đồng vay tiền VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

DƯƠNG THU PHƯƠNG – Lớp DS32C, Đại học Luật Hà Nội

1. Lãi suất và đặc điểm của lãi suất

Trong hầu hết các hợp đồng cho vay tiền, người vay thường phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỉ lệ phần trăm của phần tăng thêm này so với phần vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất (interest rate). Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền sử dụng tiền cho người khác có nghĩa là anh ta đã hi sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình với hi vọng có được lượng tiền lớn hơn ngày mai. Sẽ không có sự chuyển nhượng vốn nếu không có phần lớn lên thêm đó hoặc là nó không đủ đề bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.

Có nhiều cách định nghĩa về lãi và lãi suất. Theo Quy định phương pháp tính và hoạch toán thu, trả lãi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng Ban hành kèm theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17-5-2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thì Lãi được hiểu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoăc bên thuê trả cho bên vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất ([1]).

Cũng có định nghĩa cho rằng: lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn([2]).

Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, lãi suất được định nghĩa là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi tiêu.

Continue reading

LÃI SUẤT TRONG HỢP ĐỒNG VAY TIỀN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN NỀN KINH TẾ HIỆN NAY

CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI – NĂM 2009

 

Người thực hiện: Dương Thu Phương 

Giới tính: Nữ   

Dân tộc: Kinh

Lớp: DS32C

Năm thứ: 3/4      

Khoa: Luật Dân Sự

Người hướng dẫn: Nguyễn Minh Oanh

THS. GV

Khoa: Luật Dân Sự

     

LỜI NÓI ĐẦU

Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn nỗ lực tìm kiếm các giải pháp nhằm đưa nền kinh tế nước nhà phát triển một cách toàn diện và hội nhập có hiệu quả với nền kinh tế thế giới. Những giải pháp đưa ra và được thực hiện trên thực tế đã thu được những kết quả khả quan, trong đó có những biện pháp quy định về lãi suất (interest rate). Việc điều chỉnh lãi suất hợp lí sẽ giúp phát triển nền kinh tế.

Tuy nhiên, hiện nay những quy định của pháp luật về hợp đồng vay tài sản và đặc biệt là lãi suất có những bất cập nhất định. Những bất cập đó thể hiện ở chỗ những quy định pháp luật này còn thiếu cụ thể, lỗi thời không phù hợp với thực tế. Sự quy định của pháp luật đã bộc lộ những khiếm khuyết khi những quy định này được áp dụng trong cuộc sống. Và khi có rất nhiều tranh chấp xảy ra cộng với tình hình phức tạp của nền kinh tế hiện nay thì một đòi hỏi nhất thiết là phải sửa đổi luật để đảm bảo lợi ích cho các chủ thể và xây dựng một hàng rào pháp luật vững chắc.

Continue reading

ĐƯƠNG SỰ – CHỦ THỂ ĐẦU TIÊN VÀ QUAN TRỌNG NHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

QUÁCH MẠNH QUYẾT – LỚP DÂN SỰ B  KHÓA 31 CHÍNH QUI, ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật.

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản:

– Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.

– Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.

Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ án.

Continue reading

VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ – VẤN ĐỀ CƠ BẢN NHẤT CỦA TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY

CÔNG TRÌNH DỰ THI GIẢI THƯỞNG “SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC”
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI. NĂM 2009

Người thực hiện: Quách Mạnh Quyết 

Giới tính: Nam   

Dân tộc: Kinh

Lớp: DS31B 

Năm thứ: 3/4      

Khoa: Luật Dân Sự

Người hướng dẫn: Trần Phương Thảo

THS. GV

Khoa: Luật Dân Sự

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI

1. Tính cấp thiết của đề tài

Luật tố tụng dân sự (TTDS) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Là luật hình thức độc lập mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật nội dung khác nhau như: Luật Dân Sự, Luật Hôn Nhân Và Gia Đình, Luật Thương Mại, Luật Lao Động… Nhưng những luật nội dung này đều mang những đặc trưng cơ bản của Luật Dân Sự như tính bình đẳng, tự quyết và thoả thuận giữa các bên… đòi hỏi Luật tố tụng dân sự cũng phải thể hiện được bản chất tương ứng trong việc đánh giá và xác định vai trò quan trọng của các đương sự, đặt họ vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam mà Đảng và Nhà Nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.

Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm dứt (bãi nại) tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích của hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình chứng minh đó.

Continue reading

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA PHÒNG PHÁP CHẾ TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN TỪ THỰC TIỄN CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á

NGUYỄN TIẾN MẠNH  – PHÒNG PHÁP CHẾ NGÂN HÀNG ĐÔNG Á

CHƯƠNG I :

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ SỰ CẦN THIẾT THÀNH LẬP PHÒNG PHÁP CHẾ.

1.1 Sự hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần.

Trước năm 1990, về cơ bản hệ thống ngân hàng Việt Nam tồn tại theo mô hình một cấp, gắn với những đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo mô hình này, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là pháp nhân duy nhất hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, vừa với tư cách là cơ quan quản lí nhà nước về ngân hàng, vừa tiến hành các hoạt động của ngân hàng trung ương trên lãnh thổ Việt Nam đồng thời cũng kiêm luôn chức năng của một ngân hàng thương mại, tức là huy động vốn và cho vay đối với khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể. Mô hình này không có sự tách bạch rõ ràng giữa chức năng quản lí nhà nước về ngân hàng của ngân hàng nhà nước với chức năng kinh doanh ngân hàng của ngân hàng thương mại. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn này không hoạt động theo đúng nghĩa của một ngân hàng trung ương, cũng không thực sự là một ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh ngân hàng chuyên nghiệp.

Continue reading

TÒA ÁN CÓ ĐỘC LẬP KHI TÒA ÁN XÉT XỬ SAI KHÔNG?

LÊ TRỌNG DŨNG – Khoa Luật ĐHQG Hà Nội

Nguyên tắc độc lập của toà án là nguyên tắc quan trọng trong các nguyên tắc điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của toà án. Chính hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán nhằm mục đích bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Vì nhiều lý do khác nhau mà nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để ở Việt Nam.

Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng, nếu xem xét trách nhiệm của thẩm phán thì nguyên tắc này không được đảm bảo, thậm chí còn mất đi tính độc lập. Tác giả bài viết này cho rằng, vì pháp luật của chúng ta còn thiếu hụt, mâu thuẫn, có lỗ hổng, phải hoàn thiện nên thẩm phán có thể xử kiểu gì cũng được. Để khắc phục tình trạng này người thẩm phán phải chịu trách nhiệm trong các phán quyết và có lương tâm khi xét xử.

Hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của thẩm phán liên quan trực tiếp sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Nó còn ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lưỡng, tỷ mỷ. Đây chính là cơ sở của việc thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi thẩm phán phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì những phán quyết của thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó, việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.

Continue reading

NGUỒN GỐC ÁN LỆ VÀ THỰC CHẤT VẤN ĐỀ ÁN LỆ Ở VIỆT NAM

NGUYỄN TẤN DŨNG – Lớp HC29A – Đại học Luật TPHCM

1 Án lệ có từ bao giờ: Có thể nói một án lệ ra đời từ bao giờ là một câu hỏi mà câu trả lời không có một đoạn kết chính xác và làm hài lòng cho tất cả.

Với người Anh, họ sẽ cho rằng nước Anh là “quê hương”, là nơi ra đời của án lệ. Điều này cò thể được các luật gia, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật ở Anh, và các nứơc theo truyền thống Thông luật (Common law) giải thích với lý do:

Thứ nhất, truyền thống pháp luật Anh là truyền thống của Thông luật – pháp luật đựơc hình thành chủ yếu bằng con đường xét xử;

Thứ hai, Thông luật ở Anh đựơc hình thành từ rất sớm, từ năm 1066;

Thứ ba, pháp luật Anh đã đựơc lan truyền khắp thế giới chủ yếu bằng con đưòng mở rộng thuộc địa của Đế quốc Anh, và bằng con đường tự tiếp nhận, từ đó đã hình thành trên thế giới hệ thống pháp luật Common Law ( Thông luật);

Và lý do quan trọng nữa là, nước Anh là nước sử dụng án lệ điển hình nhất.

Đó chỉ là lập luận của những “ngưòi Anh”, hay một số học giả khác. Nếu chúng ta nghiên cưú chính trong pháp luật Anh, và xem đến tận cùng của vấn đề, chúng ta sẽ thấy có một điều mà ngưòi Anh đã tự công nhận nguồn gốc của án lệ. Ta có thể thấy rằng, án lệ đã ra đời trước đó (trứơc năm 1066), án lệ có nguồn gốc từ trong pháp luật La mã_tức nó đã có từ thời kỳ La MÃ cổ đại. Điều này đựoc minh chứng rõ và không thể phủ nhận đựơc trong việc áp dụng học thuyết án lệ ở Anh, với quy tắc bất thành văn Stare Decisis-tức là quy tắc tôn trọng tiền lệ. Nếu không có án lệ thì làm sao có sự tôn trọng tiền lệ, để rồi ra đời học thuyến về quy tắc án lệ trong pháp luật La Mã cổ đại. Và có thể thấy một ví dụ cho việc ra đời một nguyện tắc, trở thành một khuôn mẫu trong xét xử đối với các vụ án tử hình đã có từ thời kỳ La Mã cổ đại. Đó là nguyện tắc:” trong khi xét xử vụ án tử hình, nếu tất cả các thành viên phán xét ( ngày nay, có thể là hội đồng xét xử, hay là Hội đồng thẩm phán) ngay lập tức bỏ phiếu đồng ý với bản cáo trạng thì bị cáo sẽ đựoc tuyên vô tội (trắng án). Chỉ khi có ngưòi đau ra một lập luận ủng hộ ngưòi bị xét xử đó (bị cáo) và lập luận đó bị tất cả các thành viên còn lại đồng ý với bảo cáo trạng xử tử hình, thì bị cáo mới bị xử tử hình”- nguyên tắc không nhất trí trong páhp luật La Mã xưa.

Vấn đề này được tuyên và hình thành một nguyên tắc xét xử ở thời kỳ cổ đại là do:

Nguyên tắc trên đã đựoc đảm bảo rằng, các bị cáo khi bị xét xử sẽ đựoc thực hiện theo một quy trình nhất định, tức là, sau khi các thành viên xét xử tranh tụng và trứoc khi đưa ra phán quyết nào, các thành viên sẽ pahỉ dành một đêm tiếp tục tranh luận theo từng cặp để tìm ra lí lẻ bào chữa cho ngưòi bị xem là có tôi. Điuề này có nghĩa, là páhp luật đã coi trong việc một bị cáo có cơ hội được tha tội;

Nguyên tắc này là một cách để các thành viên xét xử phỉa đưa ra ít nhất một lập luận để bảo vệ ngưòi bị xét xử. Nếu tất cả đều vội vàng kết tôi thì sẽ nảy sinh vấn đề không biết liệu cả hai mặt lập luận có được xem xét nghiêm túc hay không, điều này sẽ dảm bảo cho một thủ tục được tiến hành để đảm bảo rằng sẽ có tranh cõi – tức là hai mặt lập luận đã được pâhn tích và tất cả mọi dữ kiện điều đã được trình bày.

Vấn đề còn lại của việc tuyên tử hình để đảm bảo chính xác và công lý là cần có một ngưòi-thành viên xét xử phải pảhn đối kịch liệt lại những lập lập chống án tử hình đối với ngưòi bị xét xử. Do đo, mà trong khi xét xử ở La Ma thời kỷ cổ đại đã hình thành nên một ngưòi pảhn biện, gọi là ngưòi chống đối trung thành.

2. Lịch sử án lệ ở Việt Nam:

Câu hỏi ở Việt Nam đã có án lệ chưa? Và rất nhiều câu trả lời là chưa? Và tắc giả viết bài này xin nói rằng, Việt Nam đã từng có Án lệ, nhưng hiện hại trong hệ thống pháp luật, thì án lệ không được công nhận trên lý luận, cũng như trong thực tiễn áp dụng pháp luật ở Việt Nam.

Xin khẳng định rẳng, trên đất nước Việt Nam, trong lịch sử, từ thời kỳ sau năm 1858- năm thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và bắt đầu chiếm đống đô hộ, đến trước năm 1975 – năm Việt Nam hoàn toản giải phóng khỏi ách thống trị của những nước xâm lược, thì đã từng có án lệ. Điều này được viết với sự khách quan, và tìm hiểu vấn đề không dựa trên một ý muốn gì, mà chỉ dựa trên quan điểm khoa học,và những gì đã có trong lịch sự cảu nước Việt Nam . Điều này sẽ được minh chứng, đó là với những lý do:

Thứ nhất, Việt Nam đã là thuộc địa cụa Pháp trong hơn 80 năm, và ở minề Nam Việt Nam đã từng có một “ nhà nước thân Mỹ” trong một thời gian dài. Mà những điều này đả ảnh hưởng rất lớn đến xã hội, chính trị, và cả nên pháp luật của Việt Nam;

Thứ hai, Pháp và đặc biệt là Mỹ, đã là những quốc gia mà án lệ dù thế nào cũng đã có, được thừa nhận với những giá trị bắt buộc riêng. Vậy trong thời gian dô hộ đó, thử hỏi, Việt Nam có thể không chịu ảnh hưởng của ít nhất là về mặt tư tưởng về vấn đề án lệ trong pháp luật không?

Thứ ba, xin đưa ra hai ví dụ về án lệ ở Việt Nam thời kỳ đó, để chứng tỏ là Việt Nam đã từng có án lệ: Ví dụ thứ nhất, được minh chứng trong một án lệ hành chính: đây có thể nói là một án lệ thể hiện cho sự tiếp thu và quá trình “phap luật hoá” của thực dân Pháp sau khi đô hộ Viêt Nam, việc này vừa để thống trị, vừa để cho thấy tính thích nghi của mộ hình án lệ hành chính của Pháp.

Án lệ của Tham Chính viện , phiên toà ngày 11 tháng 6 năm 1956 về vụ Công ty xe điện Autobus ( CFTI ) k/ Toà đại biểu Chính phủ tại Việt Nam.

Trong án văn hành chính này, Tham chính viện đã căn cứ vào:

– Chiếu dụ sô 5 ngày 18/10/1949 tổ chức tối cao pháp viện;

– Chiếu dụ số 38 ngày 9/11/1954 tổ chức tham chính viện thay thế ban hành chi\ánh tối cao páhp viện;

– Chiếu dụ sô 2 ngày 3/1/1960 tổ chức toà hành chình;

– Chiếu dụ số 26 ngày 8/11/1954 sửa đổi dụ số 2 ngày 5/11/1950 nói thêm;

– Chiêu dụ hợp đồng lý kết ngày 18/10/1935 giữa thủ hiến Nam Viết và công ty xe điện và Ô tô buyt ở Sài Gòn, Chợ lớn;

– Chiếu bản phán quyết của uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954;

– Chiếu án lệnh ngày 21/8/1954 của ông Chánh án dự khuyết toà án hành chính hỗn hợp Đà Lạt. Cho thi hành bản phán quyết cùa Uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954 vô giá trị và phải huỷ bỏ;

– Chiếu chi công ty xe điện và ô tô buyt thỉnh cầu trong đơn khuyến cáo xin tạm hoãn thi hành bản án ngày 20/1/1956 của toà án Hành chính đã tuyên xử huỷ bỏ phán quyết cvủa uỷ ban trọng tài ngày 9/7/1954;

– Chiếu chi theo nguyên tắc, sự kháng cáo không đình chỉ hiệu lực của bản án hành chính;

– Chiếu chi theo cuộc thẩm cứu và các tài liệu dệ nạp trong hồ sơ thì dầu có cjho rằng sự thi hành ngay bản án sơ thẩm có thể gây cho công ty nguyên kháng sự thiệt hại đi chăng nữa , sự thiệt hại này , xét ra không phải là không đền bù được.

Từ những căn cứ trên, Tham chính viện đã ra quyết định:” Bác lời thỉnh cầu của công ty nguyên kháng xin tạm hoãn thi hành bản án lọnh kháng cáo”.

Sau khi phán quyết này ra đời, đã khẳng định lại nguyên tắc cơ bản của Luật hành chính thời đó là:” những bản án của toà hành chính có hiệu lực chấp hành đương nhiên, trừ trường hợp ngoại lệ là bản án của Toà hành chính bị tuyên hoãn thi hành khi buộc có 2 điều kiện:

Thứ nhất, đơn khiếu nại (kháng cáo) phải căn cứ vào các lý do đúng đắn; và

Thứ hai, sự thi hành bản án bị chỉ trích có thể gây ra một sự thiệt hại không thể đền bù được.

Trong vụ án do Tham Chính viện giải quyết trên, bên nguyên đơn đã có đủ điều kiện thứ nhất, nhưng về điều kiện thứ hai, tham chính viện đã cho rằng mặc dầu bản án của Toà đại biểu chính phủ tai Viet Nam có thể gây ra cho công ty Autobus(CFTI) một sự thiệt hại chăng nữa, thì sự thiệt hại ấy có thể đền bù bằng một số tiền bồi thường, nên đã bác đơn thỉnh cầu xin tạm hoãn thi hành bản án của toà hành chính trên.

Chính quyết định này của Tham chính viện đã tạo thành một tiền lệ cho các vụ án tương tự về sau.

Trên đây là vì dụ về một vụ án hành chính, đã hình thành nên một án lệ hành chính trong thực tiễn pháp luật ở Việt Nam thời kỳ đó. Dưới đây là một vì dụ điển hình cho một án lệ trong lĩnh vực hôn nhận gia đình thời xưa ớ Việt Nam .

Trong những tranh chấp về lĩnh vực hôn nhân gia đình, do đây là một quan hệ dân sự, có sự đa dạng , diến đổi, và rất phong phú, nên để co một án lệ chính thức, đã pahỉ trải qua một thời gian dài xét xử nhiều vụ án khác nhau, với nhiều án văn khác nhau. Trong phần vì dụ này, người viết đề cập đến án lệ của Toà thượng thẩm Sài Gòn về vấn đề tài sản riêng cùa người vợ, trong vụ Diệp Thuận PHong k/ Thái Thị Liên, trong án văn cuối cùng ra ngày 30 tháng 11 năm 1961 đã ra quyết định dứt khoát một án lệ cộng nhận rằng “người đàn bà có chồng được quyền có sản nghiệp riêng”.

Để có được án lệ trên, từ trước đã có các bản án hay án lệ đối nghịch nhau về quyền tài sản riêng của người vợ trong thời kỳ hôn nhận. Việc có các án văn đối nghịch nhau về cùng một vấn đề tương tự này là do xuất phát từ hai học thuyết và vào một thời kỳ khác nhau, mà mỗi học thuyết lại tác động tạo ra các bản án khác nhau. cụ thể là:

Học thuyết thứ nhất, theo nguyên tắc người chồng là chúa tể tuyệt đối của tất cả tài sản vọ chồng , bất kể là của ai, hay ở đâu, hay được có như thế nào. Đó là hậu quả của tổ chức gia đình Việt Nam chịu ành hưởng của tư tưởng páhp lậut và “văn hoá” phong kinế, trong đo người phụ nữ nói chúng, và người vợ nói riêng có địe vị thấp kém hơn người dàn ông, hay người chồng. Điều này đã được khẳng định trong Bộ luật Gia Long:” người chồng có quyền tự ý sử dụng của cải của người vợ, dù người vợ không đồng ý “ vì luật pháp cấm không cho người vợ đi kinệ người chồng.

Học thuyết này được thể hiện trong cac án văn, án văn của Toà thượng thẩm Sài Gòn ngay 8/9/1891, đặc biết là một bản án đáng chú ý là án văn nggày 17/7/1938 trong vụ thạch Long k/ Thị Lý của Toà Thượng thẩm Sài Gòn, đã khẳng định vững chắc là người vợ không có quyền có tài sản riêng.

Học thuyết thứ hai, cũng đã song song tồn tại với học thuyết thứ nhất, có quan niệm rằng, người vợ trong gia đình Việt Nam có của cải riêng. Lập luận này được đưa ra là do, không một ai dám mua tài sản riêng của vợ nếu người vợ không đồng ý, dù người vợ không có quyền đi khởi tố người chồng, thì có thể họ hang của người vợ sẽ khởi tố thay. Và tòa an theo tục lệ sẽ huỷ bỏ hợp đồng trên nếu không có lý do chính đáng từ phía người chồng; ngoài ra, theo luật tuc thì người vợ được ghi tên vào sổ thuế đối với những của cải riêng của mình, đó là một cách khẳng định quyền sỡ hữu của người vợ, và ý nghĩa đảm bảo của páhp luật đối với quyền đó.

Học thuyềt này được thể hiện trong các bản án: án văn CS ngày 24/3/1921 ( J.J 1921 trang 388, vụ Nguyễn Văn Lung k/ Đinh Thị Lợi)- đây là án văn đánh đâu sự chuyện hướng về thuyết người vợ có tài sản riêng; Án văn Cs ngày 6/6/1939 – J.J 1929- 3/78 Trần Thị Vi, Nguyễn Văn Huê k/ Maya pachatty, nói tài sản mà vợ thừa hưởng từ thừa kế riêng không thể là tài sản chung của vợ chồng, vì thế không thể dung để trả nợ thay cho chồng.

Đó là hai học thuyết đã cũng tồn tại trong một thời gian dài, nhưng từ sau bản án được tuyên ngày 30/11/1961 về vũ Diệp thuận Phong k/ Thái Thị Liên của Toà Thượng thẩm Sài Gòn đã khẳng định quyền có tài sản riêng của người vợ trong thời kỳ hôn nhận. Điều này đã tạo ra một án lệ, mà về sau các vụ án tương tự tranh chap về tài sản vợ chồng, và quyền có tài sản của người vợ. Nhưng, để ra một án lệ như trên, toà Thượng Thẩm Sài Gòn đã pahỉ tuyên, dự trên một loạt các lý do:

– Thứ nhất, chiếư chi Luật Gia Long theo sự khảo cứu của nhiều luật gia đã ghi chép lại gần như nguyên văn Bộ luật Mãn Thanh của Trung Quốc, như vậy chưa cắc đã là phản ảnh thực sự phong tực Việt Nam;

– Tiếp theo là lý do, dù sao phong tục xã hội đã thay đổi và quan niệm do đó người đàn bà chỉ được hưởng một tình trạng pháp lý thua kếm người đàn ông là một thành kinế lỗi thời, không còn thích hợp với sự tiến hoá đã thực hiện;

– Chiếu chi vào hai bộ Dan luật Bắc Va Dan luật trung- là hai bộ luật giải quyết những vần đề về hôn nhân gai đình đã căn cứ vào phong tục chắc chắn của Việt Nam, và nay hai bộ luật ấy không còn ý do gì mà không thể áp dụng cho việc giaỉa quyết các vụ việc ở Nam phàn khi mà vấn đề chính trị , Nam phần không còn là thuộc địa của Pháp nữa;

– Lý do khác, trào lưu tiến hoá trong xã hội Việt Nam đã đẵt người dàn bà vào địa vị ngang hàng với người dàn ông, luật ngày 2/1/1959, điều 43 công nhận cho người đàn bà có chồng cũng có năng lcự pháp lý đầy đủ; điều 5 Hiến páhp công nhận sự bình đẳng giữa các công dân không phân biệt Nam Nữ theo như đúng tinh thần Hiến chương Liên Hợp Quốc;

Với những lý do chính đáng trên , mà không thể áp dụng luật Gia Long cho thân thế người vợ, và phaỉ công nhận rằng người đàn bà có chồng cũng có quyền có tài sản riêng. Tài sản này chỉ tạm thời hợp nhập vào khối tài sản công cộng, nhưng không thể biến thể để hợp nhất với tài sản của người chồng thuộc quyền sỡ hữu duy nhất của người này.

Từ đây một án lệ đã được hình thnàh trong lĩnh vực hôn nhân gia đình ở Việt Nam .. Như vậy, với các minh chứng trên, có thể khẳng định rằng, trong suốt một thời kỳ dài, Việt Nam đã từng có án lệ và công nhận án lệ là một nguồn của páhp luật. Nhưng từ sau năm 1975, đất nước thống nhất, nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời, thì án lệ không được xem là một nguồn trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, vì lúc này khẳng định, chỉ có lập páhp mới làm luật, và văn bản quy phạm páhp luật được thừa nhận là nguồn duy nhất của páhp luật Việt Nam.

3. Những vấn đề thực tiễn trong việc giải thích pháp luật và công khai các bản án ở Việt Nam hiện nay:

3.1.Giải thích pháp luật và thực trạng giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay:

Nước ta có một hệ thồng pháp luật mà trong đó, chỉ công nhận văn bản quy phạm páhp luật là hình thức duy nhất của pháp luật, do đó, để đảm bảo đưa các quy phạm mang tính khái qúat cao vào cuộc sống, đồng thời các quy phạm này không pahỉ lúc nào cũng rõ rang, dễ hiểu và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn, do đó mà cần đến quá trình làm rõ, hướng dẫn, hay đúng hơn là quá trình giải thích pháp luật. Hoạt động giaỉ thích pháp luật được hiểu là,” nhằm làm sang tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật , đảm bảo cho sự nhận thức và thực hiện nghiệm chỉnh, thống nhất pháp luật”.

Họat động giải thích pháp luật, là hướng đến chủ thể thứ hai, để họ nhận thức và thực hiện chúng một cách đúng đắn. Ở Việt Nam, cũng như nhiuề nước khác trên thế giới, hoạt động này, nếu do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì nó sẽ có giá trị bắt buộc, còn nếu, hoạt động giải thích pháp luật do các nhà nghiên cứu, bình luận thì chỉ mang tính khoa học mà không có giá trị mang tính bắt buộc thực hiện đối với các hành vi của chủ thể.

Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta việc hoạt động giải thíhc pháp luật không đáp ứng đựơc các yêu cầu của lý luận cũng như thực tiễn.

Về thực tiễn, ở Việt Nam, khi một đạo luật có hiệu lực thì cơ quan cấp xã , huyện phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quan cấp tỉnh; cơ quan cấp tỉnh lại phải chờ văn bản hướng dẫn của cơ quant rung ương thì mới được thi hành. Điều này bị dẫn đến các đạo luật bị mất hiệu lực trực tiếp, đạo lậut phải chờ Nghị định , thong tư, công văn trong một thời gian rất dài thì mới được thi hành trên thực tế sau khi có hiệu lực, nhất là Hiến pháp- thường trong cuộc cống páhp lậut Việt Nam, các cơ quan nà nước ít viện dẫn, ít đưa Hiến pháp vào quá trình áp dụng páhp lậut, cũng như các toà án khi tuyên án thường không có một căn cứ nào về hiến pháp trong bản án. Ngoài ra, thực tiễn cho thấy, giá trị thực tế của Nghị định và thong tư còn cao hơn cả luật, nếu có mâu thuẫn giữa luật và văn bản hướng dẫn thì thường, các cơ quan nhà nước lại theo các văn bản hướng dẫn đó. Những việc này xảy ra, phần lớn là do hoạt động giải thích páhp luật chưa có những nguyên tắc rõ ràng, và không hợp lý khi giao cho các cơ quan.

Trong quy định của Hiến pháp, khoản 3 điều 91 của Hiến pháp năm 1992 quy định: “Ủy ban Thường vụ quốc hội có quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Một quy định trên văn bản cao nhất của một quốc gia, nhưng tfrên thực tế, Uỷ ban thường vụ quốc hội lại không sử dụng hay thực hiện quyền này nhiuề, mà nhu cầu giải thích thì rất lớn, vì các các văn bản lập páhp do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước ta ban hành thường mang tính chung chung, hiến chương,”biểu ngữ”, mà tính quy phạm, thực tế thì lại không cao.

Việc Uỷ ban thường vụ quốc hội không thực hiện nhiuề quyền này vì với tư cách là một cơ quan thường trực của Quốc Hội không chuyên trách , nên phảo thực hiện nhiều việc quan trong hơn. Hơn thế nữa, chính uỷ ban thường vụ quốc hội là một bộ pậhn giữ vai trò rất lớn trong việc thong qua luật, dặc biệt là có quyền ban hành các phá lệnh, vì vậy, hoạt động giải thích pháp luật của quốc hội sẽ có khi lại là” do mình làm, thì đã rồi, còn giải thích chi nữa”.

Nếu Uỷ ban thường vụ quốc hội không đảm bảo việc giải thích pháp luật của mình theo quy định, thì một điều ngược lại đã xảy ra đối với hoạt động giải thíhc páhp luật của các cơ quan hành chính. Ở nước ta, các cơ quan hành chính thực hiện hoạt động giaỉ thích pháp luật là nhiuề nhất hơn cả cơ quan tư pháp là toà án. Các cơ quan hành chính ở Việt Nam, bên cạnh việc thực hiện chức năng do cơ quan lập páhp giao, đặc biết là tront vấn đề mà các luật mang tình khát quát, chung chung, trừu tượng không đáp ứng kịp thời các quan hệ xã hội, và thực tiễn, bên cạnh việc thực hiện ra các quy định chi tiết hóa các quy định đó theo uỷ quyền, thì các cơ quan hành chính này lại lấn sang cả vấn đề “làm luật”, hay giải thích luật vựot quá uỷ quyền, đó là việc ban hành các quy định để định nghĩa các khái niệm.

Điều này còn dẫn tới một tình trạng không mong muốn đã xảy ra là, luật, pháp lệnh được ban hành nhưng không có hiệu lực trực tiếp, mà phải chờ và thực hiện theo những khía niệm, định nghĩa, và hướng dẫn do các cơ quan hánh chính ban hành hướng dẫn. Các đạo luậtt đã không còn đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp luật, mà thay vào đó là một đời sống pháp luật nghị định và thông tư.

Có thể nói rằng, hoật động giải thích pháp luật bất cập nhất ở Việt Nam hiện nay, là không có một quy định cụ thể, rõ rang, trong việc trao thẩm quyền giải thích páhp lậut cho Toà àn trong Hiến pháp cũng như các đạo luật. Ở hầu hết các nước trên thế giới, cũng như trong tư tưởng lập pháp ở Việt Nam điều luôn công nhận và xem hoạt động giaỉ thích páhp luậtt do toà án thực hiện là chính và chủ đạo, tuy nhiên đĩều đó cũng không có nghĩa là không cò một quy định cho thẩm quyền này của toà án.

Toà án bất cứ nơi đâu và khi nào, từ khi ra đời đã là một thiết chế giữ vai trò bảo vệ pháp lậut , và vì công lý, vì vậy, trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Toà án là một hiển nhiên, và còn cũng cố hôn cho điều này trên các lý do:

Thứ nhất, so với lập pháp và hành pháp thì tư páhp được thành lập và hoạt động độc lập với đời sống chính trị cao hơn. Sự độc lập này là dặc trưng của toà án để bảo vệ công lý . Toà án với tư cách là trọng tài, sẽ thực hiện việc giải thích pháp luật, phán xét theo pháp luật cộng bằng và hợp lý hơn;

Thứ hai, các quy phạm pháp luật thường khó hiểu đối với những người dân bình thường, và có khi là ngay cả những ngưòi nghiên cứu pháp luật, nên muốn làm rõ nội dung, tư tưởng của các quy phạm đó phaỉ có chuyện môn, về lý luận, cũng như về thực tiễn. Điều này sẽ được đảm bảo, vì các Thẩm phán là những người được đào tạo chuyên môn, và là những người hoật động lâu năm trong công tác pháp luật và công tác xét xử, do đó sẽ giải thích pháp luật đúng và phù hợp nhất với yêu cầu;

Thứ ba, chân lý là cái gì đó cụ thể vào thực tiễn, chứ không phaỉ là cái mơ hồ, xa vời. Toà án với việc giaỉ quyết mỗi vụ án hằng ngày trong thực tiễn , nên dễ đáp ứng yêu cầu này thì toà án là cơ quan tốt nhất phải được trao quyền giải thích pháp luật;

Thứ tư, Toà án so với cơ quan lập pháp (Quốc hội, và Uỷ ban thường vụ quốc hội) và cơ quan hành pháp ít có nguy cơ lạm dụng quyền hơn. Mà giải thích pháp luật thường sinh ra lạm quyền, cắt xắn, hạn chế quyền tự do của con người, và công dân. Do đó, trao giải thích pháp luật cho Toà án là cách để giữ gìn cán cân công lý, và sẽ được người dân chấp nhận nhất.

3.2.Việc Công khai các bản án ở Việt Nam hiện nay:

Việt Nam chúng ta đang tiến hành thực hiện chiến lước cải cách tư pháp, trong đo vấn đề minh bạch hoá trong hoạt động tư pháp , tạo long tin cho người dân vào cac phán xét của toà án là một chiến lước quan trong. Việc minh bach hoá, và tạo long tin cho người dân không có gì là tốt hơn khi ta tiến hành hoạt động công khai các bản an, tuy rằng cũng cần phảicó những bản án không được công khai như các vấn đề về “an ninh quốc gia” , hay thuần phong mỹ tục”.

Theo quy định tại điều 131 Hiến pháp 1992 thì” việc xét xử của toà án được tiến hành công khai, trừ trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục dân tộc…thì toà án sẽ xét xử kín”. Và sau khi tuyên án, bản án phaỉ được gởi cho các đương sự, viện kiểm sát… Đó là các quy định của pháp lậut trong việc sông khai cac quyết dinhị tư páhp. Tuy nhiên, trong thực tiễn, đối với các chủ thể khác mà páhp lậut không quy định toà án pahỉ cung cấp các bản án cho họ, thì đã nảy sinh ra nhiều hạn chế, nhất là đối với các nhà nghiên cứu, các luật sư, và những người muốn tham khảo các bản án đó để phục vụ cho công tác nghiên cứu, nhưng đồng thời đó cũng là một cách nâng cao hiểu biết cho mọi người về thực tiễn xét xử.

Những năm gần đây, toà án nhân dân tối cao ở nước ta đã chọn lọc và công bố được một số quyết định giám đổc thẩm của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong năm 2003 và 2004, tuy nhiên, đêìu này cũng không có nghĩa đã đáp ứng được các như cầu của mọi ngưòi trong việc khi có nhu cầu thì có thể cập nhật dễ dàng và tìm kiếm một cách đơn giản.

Do đó, cần có việc côngkhai các bản án dưới các hình thức là các tập bản án hay ít ra là cac cơ sở dữ liệu của các bản án đảm bào cho người dân truy cập tìm kiếm.

3.3. Giải thích pháp luật và việc tạo ra án lệ:

Trong nhiều trường hợp, luật làm ra không được khúc chiết, rò ràng gây ra những khó khăn trong vấn đề áp dụng . Muốn hiểu rõ ý định của các nhà lập pháp hoặc là tầm mức hiệu lực của các tập quán, cần phải có một sự giải thích về những điều luật , những tập quán chưa rõ hoặc tối nghĩa đó. Và như lệ thường, toà án sẽ đảm trách việc giải thích pháp luật trong khi xét xử các vụ kiện mỗi khi gặp phaỉ một điều luật tối nghĩa, hoặc khi các điều luật mâu thuẫn nhau, hoặc khi các tập quán không được rõ ràng. Chình đường lối giải thích và áp dụng luật páhp của toà án cho một sự kinệ páhp lý , nếu ở các nước thong luật, sẽ được xem là một án lệ, và án lệ này sẽ được đối chiếu áp dụng cho các trường hợp tương tự sau.

Ở Việt Nam , vấn đề giải thích pháp luật như trên, không phaỉ và đã chưa tạo ra án lệ. Vì án lệ còn cần nhiều điều kiện khác, như sự công nhận của nhà nước và án lệ, như bản án cảu toà án nào thì được xuất bản trong tập án lệ, và nội dung bản án đó phaỉ lien quan đến vấn đề páhp luật trong một vụ việc cụ thể;… Và Việt Nam đã không công nhận án lệ là một nguồn luật trong hệ thống páhp luật. Dù rằng có quan điểm cho rằng, Việt Nam có án lệ, và đã công nhận án lệ, như theo quy định tại điều 3 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: "Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng quy định tương tự của pháp luật…”. Việc thừa nhận áp dụng tập quán và áp dụng quy định tương tự của pháp luật không có nghĩa, hay đồng nghĩa với việc Việt Nam thừa nhận áp dụng án lệ, vì tập quán không là án lệ; và ap dụng quy định tương tự của pháp luật càng không phải là án lệ- mục tiêu của áp dụng páhp luật tương tự là đi tìm các quy phạm chứa giả định tương tự sự kinệ xảy ra để giải quyết nó bằng các quy phạm đó, còn mục tiêu của vịêc áp dụng tiền lệ pháp (án lệ) là đi tìm các vụ án bằng cách so sánh các tình tiết vụ án nới những sự kiện đã xảy ra, nếu có sự tương tự giữa hai vụ án đó, thì se áp dụng pháp quyết của vụ án trước cho vụ án sau.

Như vậy, vậy giág thích pháp luật ở Việt Nam không tạo ra án lệ, và Việt Nam cũng không có án lệ trong hệ thống páhp luật.

SOURCE: TÁC GIẢ GỬI (Cám ơn tác giả Nguyễn Tấn Dũng, việc sử dụng bài viết vào mục đích thương mại phải có sự đồng ý của tác giả)

CÔNG CHỨNG VÀ MÔT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG

NGUYỄN TIẾN MẠNH, HÀNH CHÍNH 29A – ĐH LUẬT TP HCM (PHÒNG PHÁP CHẾ – NHTMCP ĐÔNG Á)

Hiện nay, hoạt động công chứng và pháp luật về công chứng ở nước ta đang là một vấn đề nóng, còn nhiều bất cập, chưa thực sự rõ ràng và hoàn thiện. Gây không ít khó khăn cho người dân cũng như các chủ thể khác trong việc tham gia quan hệ pháp luật. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đưa ra một số nhìn nhận và đánh giá về vấn đề trên, sự đánh giá và kiến nghị đó sẽ không tránh khỏi những thiếu sót rất mong được sự góp ý kiến của đọc giả.

Ở các nước tiên tiến trên thế giới, đã từ lâu không còn khái niệm công chứng (PUBLIC notary) mà thay vào đó là các phòng công chứng tư nhân (lẽ ra phải gọi là “tư chứng” mới đúng nhưng hiện từ tiếng Việt chưa có từ tương đương).

Một số nước như Pháp (Pháp có 60 triệu dân nhưng có tới 4.500 Văn phòng công chứng – VPCC và 8.000 công chứng viên – CCV); Đức; Mỹ, công chứng tư đã có cách đây hàng trăm năm và đều có con dấu quốc huy, trên còn in cả mã số của công chứng viên. Ở châu Âu, CCV là tự do. Các nước XHCN cũ cũng chuyển qua mô hình này.

Luật sư công chứng, chứng thực các giấy tờ, các giao dịch trong xã hội là một thông lệ phổ biến trên thế giới.

Continue reading

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CƠ CHẾ “MỘT CỬA” TẠI XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN

NGUYỄN TIẾN MẠNH – Hành chính 29A, ĐH LUẬT TP.HCM (Phòng pháp chế NHTMCP ĐÔNG Á)

Nền hành chính của bất kỳ quốc gia nào cũng được đánh giá thông qua hiệu quả quản lý nhà nước. Ở Việt Nạm, đi đôi với chế độ chính trị, chúng ta cũng đã áp dụng nhiều hình thức quản lý nhà nước khác nhau.

Qua mỗi thời kỳ, nền hành chính Việt Nam đang có những cải cách đáng kể về chủ trương, chính sách kinh tế – xã hội. phải kể đến một trong những cải cách ấy là cải cách hành chính. Đây không chỉ là bước thay đổi đơn thuần mà nó mang ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, hướng đến đối tượng phục vụ là nhân dân, phù hợp với định hướng phát triển của xã hội chủ nghĩa.

Những năm qua, công cuộc cải cách hành chính bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định. Chính phủ Việt Nam đã triển khai áp dụng cơ chế “ một cửa” tại các cơ quan hành chính nhà nước. Như vậy, việc quản lý nhà nước ở các cơ quan hành chính nhà nước bước đầu đã có những thay đổi đáng kể, có sự tác động tích cực vào sự vận hành của cơ chế quản lý nhà nước, xây dựng một nền hành chính trong sạch.

Continue reading

TÀI SẢN HÌNH THÀNH TRONG TƯƠNG LAI

NGUYỄN TIẾN MẠNH – HC 29A- ĐHL TP HCM (PHÒNG PHÁP CHẾ NHTMCP ĐÔNG Á)

Hiện nay, việc thế chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai lại là một hình thức thế chấp khá phổ biến hiện nay ở các NHTM và nhiều Ngân hang gặp vướng mắc trong việc đăng ký GDBD đối với tài sản hình thành trong tương lai. Trong phạm vi bài viết này tác giả mong muốn một phần đóng góp, chia sẻ kiến thức pháp luật về vấn đề trên.

Cơ sở pháp lý: Điều 4 Nghị định 163/2006; Điều 342BLDS 2005; 07/2003/TT-NHNN; điều 46, 47 luật công chứng 2006; Công văn so 2057/BTP-HCTP

I. Khái niệm.

1. Định nghĩa:

Theo quy định tại Điều 342 của Bộ luật dân sự thì tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai. Và theo định nghĩa tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về Giao dịch bảo đảm thì: “ Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”.

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn