“Chúng tôi cũng có đi theo dõi trong thời gian sức mua tăng cao. Tới các cửa hàng xăng dầu, thấy chen vô bên trong rất khó. Nhưng có sự thật là rất nhiều xe, khi chúng tôi nhìn đồng hồ xăng, còn tới nửa bình hoặc 2/3 bình cũng chen vào đổ. Có khi điều chỉnh giá có 500 – 600 đồng, chen vô đổ đầy bình cùng lắm chỉ lời 1.000 – 2.000 đồng. Rất mong người tiêu dùng cân nhắc lợi ích và không dự trữ xăng dầu, gây nguy hiểm”.
Ông Nguyễn Nguyên Phương – Phó Giám đốc Sở Công thương Tp.HCM, phát biểu tại Họp báo định kỳ, ngày 13/10/2022.
LƯU Ý:Nội dung các bài viết có thể liên quan đến quy phạm pháp luật còn hiệu lực, không còn hiệu lực hoặc mới chỉ là dự thảo.
KHUYẾN CÁO:Sử dụng thông tin trung thực, không ngoài mục đích hỗ trợ cho học tập, nghiên cứu khoa học, cuộc sống và công việc của chính bạn.
MONG RẰNG:Trích dẫn nguồn đầy đủ, để kiến thức là năng lực của chính bạn, để tôn trọng quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm, cũng như công sức, trí tuệ của người đã xây dựng trang Thông tin này.
Qua 4 lần xét xử, vụ kiện “chia tài sản sau ly hôn” giữa anh Hồ Văn Phước và chị Nguyễn Thị Tuyết Sương đã được định đoạt bằng bản án số 27/HNPT của TAND tỉnh Kiến Giang ngày 28.9.2007. Bản án này đã gây bất bình trong dư luận, còn VKSND tỉnh Kiên Giang ra văn bản gửi VKSND – TC đề nghị xem xét, kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm.
Bạc đãi vợ con vẫn được Toà “bênh”?
Theo hồ sơ tài liệu cho thấy: Năm 1987, anh Hồ Văn Phước (SN 1962) kết hôn với chị Trần Thị Tuyết Sương (SN 1966). Mãi đến năm 2000, vợ chồng Phước – Sang mới sinh một con trai tên là Hồ Phước Thắng. Năm 2001, hai vợ chồng vay mượn rất nhiều tiền để mua một nhà máy xay lúa cũ với giá 70 triệu đồng và sắm sửa nhiều tài sản. Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Anh Phước đã bỏ nhà ra đi trong một thời gian dài, sau đó lại về nhà. Đến tháng 10.2004 thì vợ chồng chính thức ly thân. Trong thời gian anh Phước sống ở bên ngoài với người đàn bà khác (theo lời chị Sương kể), chị Sương đã phải giật gấu, vá vai, vay nhờ cầu cạnh nhiều nơi, một mình tần tảo kinh doanh để trả khoản nợ chung của vợ chồng (trên dưới 250 triệu đồng). Đến khi mẹ con chị Sương ăn nên làm ra, mua sắm nhiều tài sản có giá trị cũng là lúc anh Phước trở về nhà yêu cầu ly hôn và chia tài sản.
Quá trình xét xử, TAND tỉnh Kiên Giang tuyên: Phước- Sương mỗi người được hưởng 482.500.000 đồng. Về số tiền nợ chung 255 triệu đồng, mỗi người phải có trách nhiệm trả một nửa; buộc chị Sương thanh toán số nợ 230 triệu đồng cho chủ nợ Kim Lê 150 triệu đồng và Minh Hội: 80 triệu đồng. Riêng về số nợ 230 triệu đồng, dư luận đang đặt câu hỏi: tại sao những tài sản phát sinh trong thời kỳ hôn nhân (do một mình chị Sương làm ra) được chia đôi còn khoản nợ 230 triệu đồng mà chị Sương vay mượn để dùng vào mục đích kinh doanh thì toà lại cho rằng đây là khoản nợ của cá nhân và buộc chị Sương phải tự trả? Phải chăng ở đây có gì khuất tất?
VKSND tỉnh đề nghị giám đốc thẩm
VKSND tỉnh Kiên Giang đã có văn bản đề nghị VKSNDTC kháng nghị giám đốc thẩm bản án. Theo đó, việc chia đôi giá trị tài sản cho anh Phước và chị Sương như TAND tỉnh Kiên Giang đã “phân định” là không xem xét cụ thể đến công sức đóng góp của chị Sương trong việc nâng cấp, duy trì và phát triển khối tài sản chung của anh chị. Khi xét xử TA chỉ xác định tổng giá trị tài sản đã thoả thuận được để chia hai mà không xem xét quyền lợi chính đáng của chị Sương là chưa thoả đáng. Mặt khác, trong các khoản nợ mà chị Sương khai thì có số nợ đất của ông Hội là 150 triệu đồng trước đây anh Phước chỉ thừa nhận 70 triệu đồng là nợ chung, còn 80 triệu đồng chị Sương tự trả. Do số nợ này chị Sương đã vay nợ chỗ khác khi mua đất, cho nên tại phiên toà phúc thẩm, chính chủ toạ phiên toà đã động viên và anh Phước thống nhất số nợ 80 triệu đồng còn lại sẽ cùng có trách nhiệm trả. Nhưng bản án phúc thẩm khi tuyên chỉ chấp nhận 70 triệu đồng nợ ông Hội là của chung, còn 80 triệu đồng chị Sương phải tự trả. Trong khi bút ký phiên toà (bút lục số 556) số tiền 150 triệu đồng vay của ông Hội, anh Phước, chị Sương đồng ý mỗi bên trả 75 triệu đồng. Như vậy, theo VKSND tỉnh Kiên Giang, bản án phúc thẩm số 27 của TAND tỉnh Kiến Giang hoàn toàn trái với diễn biến tại phiên toà ngày 28.9.2007.
Trước sự “tiền hậu bất nhất” nêu trên của TAND tỉnh Kiên Giang, VKSND tỉnh đề nghị VKSNDTC xem xét kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm số 27/2007/HNPT ngày 28.9.2007 của TAND tỉnh Kiên Giang theo hướng huỷ án, giao hồ sơ về TAND tỉnh xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.
Học để hiểu cuộc sống có thể không công bằng, nhưng kẻ vô lại nhất cũng phải được tiếp cận công lý;
Học để có niềm tin, để hoàn thiện không ngừng những gì với mình là đúng;
Học để biết cách chấp nhận thất bại và hiểu chiến thẳng phải đến từ đẳng cấp.
VỀ NGƯỜI VIỆT, ĐẤT VIỆT
Paul Giran– Tham biện, Phụ trách công việc Hành chính dân sự của Phủ Toàn quyền Đông Dương năm 1901
Tổng kết, không có khả năng quan niệm những ý tưởng quá trừu tượng, tinh thần của họ chỉ có thể vận dụng được khi có sự hiện diện của những chủ thể có thực, người An Nam không có năng lực để cảm nhận những cảm nghĩ quá phức tạp.
Nguồn: Paul Giran “Tâm lý người An Nam”, NXB: Nhã Nam – Hội Nhà văn Việt Nam.
Tôi có thể hiểu được những khó khăn hiện nay của Việt Nam.
Nhận xét thứ nhất là, phải xem xét lại hệ thống lý luận về các ngành luật.
Nhận xét thứ hai là, tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng, ở Việt Nam, tồn tại một Luật Hôn nhân và Gia đình riêng biệt với Bộ luật Dân sự, quy định về hôn nhân, gia đình là các quy định cơ bản đến mức phải nằm trong Bộ luật dân sự. Có thể các bạn có lý do để làm như vậy, nhưng dù sao là một luật gia Pháp, tôi vẫn rất ngạc nhiên khi thấy các bạn có luật riêng về lĩnh vực này.
Nhận xét cuối cùng là, thẩm phán (ở Việt Nam) không có quyền giải thích pháp luật. Tôi nghĩ rằng, thẩm phán không thể áp dụng pháp luật mà không giải thích nó, vì khi đọc bất cứ một văn bản pháp luật nào, chúng ta cũng đều nhận thấy rằng, không thể áp dụng văn bản đó một cách cơ học mà không có giải thích đó chính là trách nhiệm của thẩm phán. Tất nhiên, việc giải thích pháp luật cũng phải có giới hạn vì không thể lấy cớ là giải thích pháp luật để bóp méo một văn bản pháp luật nào đó. Tóm lại, tôi cho rằng, không thể áp đặt thẩm phán áp dụng pháp luật một cách thuần túy mà không có quyền giải thích pháp luật”.
Nguồn: Hội thảo “Bộ luật Dân sự sửa đổi”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp. Hà Nội, 28-30/10/2002.
Leave a Reply