admin@phapluatdansu.edu.vn

TỜ TRÌNH CỦA BỘ TƯ PHÁP VỀ DỰ ÁN LUẬT TIẾP CẬN THÔNG TIN

Kính gửi:

Thủ tướng Chính phủ

Thực hiện Nghị quyết số 27/2008/QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII, được sự phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng Dự án Luật tiếp cận thông tin (sau đây gọi là Dự án Luật). Bộ Tư pháp xin trình Chính phủ những nội dung chính liên quan đến Dự án Luật như sau:

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH VĂN BẢN

Ở nước ta, quyền được thông tin của công dân, tổ chức đã được thể hiện trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã khẳng định: bảo đảm quyền được thông tin… của công dân. Thể chế hoá đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân… có quyền được thông tin… theo quy định của pháp luật” (Điều 69). Gần đây nhất, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đề ra nhiệm vụ nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân và coi đây là một trong các biện pháp phòng, chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước.

Trên phương diện quốc tế, quyền tiếp cận thông tin là một trong các quyền cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự – chính trị, được ghi nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948[1], Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 mà Việt Nam là thành viên. Các quyền này tiếp tục được khẳng định trong Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng[2], Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển và Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường. Cho đến nay, nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã ban hành luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin của công chúng.[3]

Ở nước ta, cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, thực hiện chủ trương của Đảng, đồng thời nội luật hoá một số quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành có quy định về quyền được thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin do cơ quan nhà nước đang nắm giữ (các thông tin về môi trường, thông tin về quy hoạch, về xây dựng, về đất đai, về các dự án, về vệ sinh, an toàn thực phẩm, về chi tiêu ngân sách…), như Luật phòng, chống tham nhũng, Luật xây dựng, Luật đầu tư, Luật đất đai, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Luật ngân sách, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn… Việc quy định trách nhiệm công khai, minh bạch và cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước trong các văn bản pháp luật được ban hành sau ngày càng rõ ràng, cụ thể hơn so với các văn bản được ban hành trước.

Như vậy, trong thời gian qua, Nhà nước ta đã rất chú trọng đến quyền được thông tin của người dân, đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước phải công khai thông tin do mình nắm giữ. Thông qua các quy định của pháp luật, chủ trương “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã từng bước đi vào cuộc sống.

Tuy nhiên, nghiên cứu hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và khảo sát, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật về quyền được thông tin cho thấy, các quy định này còn mang nặng tính nguyên tắc, tính khái quát hơn là tính thực tiễn. Điều đó được thể hiện:

Thứ nhất, hầu hết các văn bản hiện hành mới chỉ dừng lại ở việc xác định trách nhiệm cung cấp thông tin của các cơ quan nhà nước và trao quyền tự quyết định việc cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước chứ chưa quy định quyền được chủ động yêu cầu cung cấp thông tin của công dân, tổ chức. Điều này dẫn đến tâm lý e ngại, thiếu chủ động của công dân, tổ chức khi yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.

Thứ hai, các quy định hiện hành chưa bao quát hết các lĩnh vực cần cung cấp thông tin trong đời sống kinh tế – xã hội, vì vậy, chưa phúc đáp đầy đủ nhu cầu được cung cấp thông tin đang ngày càng gia tăng của công dân, tổ chức.

Thứ ba, pháp luật hiện hành chưa thiết lập cơ chế pháp lý cụ thể để bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin một cách có hiệu quả, nhất là thiếu các biện pháp cần thiết bảo đảm thực hiện; thiếu quy định về quy trình, thủ tục cung cấp thông tin hoặc nếu có quy định thì còn thiếu rõ ràng, không thuận tiện cho việc tiếp cận thông tin của người dân.

Do pháp luật hiện hành còn bất cập như đã nêu, nên trên thực tế, việc tiếp cận thông tin còn gặp nhiều khó khăn, biểu hiện rõ nhất trong lĩnh vực quy hoạch đất đai, giao thông, xây dựng, đền bù giải phóng mặt bằng,…Việc thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc công khai thông tin trong một số trường hợp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng vị trí đặc quyền trong tiếp cận thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng, thiếu công bằng trong xã hội. Việc thiếu minh bạch, công khai của các cơ quan nhà nước đã phần nào làm hạn chế sự tham gia của công dân, tổ chức vào hoạt động quản lý nhà nước với tính chất là người giám sát, phản biện. Trong việc thi hành pháp luật, do thiếu công khai thông tin nên đã dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất, thiếu bình đẳng và cũng là một trong những nguyên nhân làm gia tăng sự tuỳ tiện, tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức.

Vì vậy, rất cần thiết phải sớm ban hành Luật tiếp cận thông tin nhằm khắc phục những bất cập trên, tạo cơ chế thực thi có hiệu quả các quy định pháp luật hiện hành, đồng thời góp phần hoàn thiện một bước pháp luật về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trong điều kiện kinh tế – xã hội hiện nay và những năm tiếp theo.

Nội dung của Luật cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây:

Thứ nhất, xây dựng cơ sở pháp lý thống nhất bảo đảm quyền tiếp cận thông tin trên cơ sở pháp điển hoá các quy định hiện hành về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin, phạm vi và các hình thức tiếp cận thông tin.

Thứ hai, quy định trình tự, thủ tục chung về yêu cầu và cung cấp thông tin, tạo thuận lợi để công dân, tổ chức thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

Thứ ba, quy định các biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, cơ chế kiểm tra, giám sát của nhà nước và xã hội đối với công tác bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin.

Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin sẽ đem lại những lợi ích nhiều mặt đối với công dân, tổ chức và Nhà nước.

Về phía người dân, việc ban hành Luật là cơ sở pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xây dựng kế hoạch, chiến lược kinh doanh. Sự tham gia của người dân vào quá trình quản lý nhà nước sẽ tự giác, chủ động, thực chất và hiệu quả hơn.

Về phía cơ quan nhà nước, việc ban hành Luật sẽ góp phần minh bạch, công khai hoạt động của các cơ quan nhà nước, nâng cao trách nhiệm và năng lực thực thi công vụ của cán bộ, công chức. Thông qua việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin sẽ hình thành cơ chế giám sát có hiệu quả của người dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, góp phần làm giảm tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Thông tin phản hồi từ phía người dân sẽ giúp các cơ quan nhà nước cân nhắc, lựa chọn và đưa ra những chính sách, quyết định đúng đắn hơn, phù hợp với lòng dân hơn, tăng hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước.

Thực thi tốt quyền tiếp cận thông tin cũng sẽ làm tăng lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, phát huy trí tuệ, tính tích cực của nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội và tăng cường dân chủ, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm ổn định chính trị – xã hội, vốn là điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững.

Việc ban hành Luật tiếp cận thông tin còn nhằm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhằm bảo đảm hài hòa với pháp luật quốc tế, thể hiện nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trên con đường hội nhập quốc tế.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT

Việc xây dựng Dự án Luật được tiến hành dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

1. Bảo đảm sự phù hợp với các chủ trương, đường lối của Đảng về quyền được thông tin của công dân, tổ chức;

2. Bảo đảm tính hợp hiến và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; kế thừa những quy định đã được thực tiễn kiểm nghiệm, hoàn thiện một bước pháp luật về quyền tiếp cận thông tin phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam hiện nay và những năm tiếp theo;

3. Tiếp thu có chọn lọc các nguyên tắc cơ bản của Liên Hợp Quốc về quyền tự do thông tin, tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng và thực thi pháp luật về tiếp cận thông tin.

4. Xác lập những quy định cơ bản bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức, còn những vấn đề cụ thể, những vấn đề chưa có tính ổn định cao, đang trong quá trình chuyển đổi thì giao Chính phủ quy định nhằm bảo đảm sự linh hoạt, bảo đảm phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội và dân trí.

III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO DỰ ÁN LUẬT

Xác định được ý nghĩa và tầm quan trọng của Dự án Luật, Bộ Tư pháp đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan ở trung ương, địa phương tiến hành khảo sát tình hình tiếp cận thông tin tại một số cơ quan trung ương, địa phương (bao gồm cả cấp tỉnh, huyện, xã); rà soát các quy định của luật, pháp lệnh và văn bản dưới luật có liên quan đến tiếp cận thông tin trong các lĩnh vực khác nhau; khảo sát tình hình thực hiện các văn bản pháp luật hiện hành về tiếp cận thông tin ở một số địa phương.

Ngày 22 tháng 12 năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã thành lập Ban soạn thảo với sự tham gia của đại diện lãnh đạo Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số chuyên gia, nhà khoa học.

Trong quá trình soạn thảo, Bộ Tư pháp đã tổ chức các cuộc tọa đàm, hội thảo với các chuyên gia trong nước và nước ngoài, tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức với nhiều hình thức, quy mô khác nhau về những nội dung liên quan đến Dự án Luật ở từng giai đoạn soạn thảo.

Ban soạn thảo cũng đã lựa chọn một số vấn đề cơ bản, quan trọng về mặt chính sách của Dự án Luật để đánh giá tác động. Sau khi phân tích, đánh giá tác động của từng phương án/giải pháp của từng vấn đề, Dự án Luật đã được xây dựng trên cơ sở lựa chọn phương án phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Ban soạn thảo đã nghiêm túc nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật và áp dụng pháp luật của các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước châu Á như: Trung Quốc, Thái Lan, Inđônêxia, Ấn độ, Hàn Quốc, Nhật Bản… (Báo cáo Tự do thông tin thế giới năm 2006; Báo cáo đánh giá so sánh pháp luật về tiếp cận thông tin năm 2008 của Uỷ ban thông tin và truyền thông, UNESCO; Báo cáo nghiên cứu về Luật tiếp cận thông tin của các nước Bắc Âu năm 2009; Báo cáo kinh nghiệm tốt của một số nước trên thế giới về quyền tiếp cận thông tin của Hội Luật gia Việt Nam; Sách "Các văn kiện quốc tế và luật của một số nước về tiếp cận thông tin"- Nhà Xuất bản công an nhân dân năm 2007).

Dự thảo Luật, Dự thảo Tờ trình và Dự thảo Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật đã được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp để các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia ý kiến.

Ngày 24 tháng 6 năm 2009, Bộ Tư pháp đã gửi Dự án Luật đến các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên quan để lấy ý kiến. Tính đến hết ngày 15 tháng 7 năm 2009, Bộ Tư pháp đã nhận được 26 ý kiến của các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức góp ý về Dự án Luật. Bộ Tư pháp đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến góp ý để chỉnh lý Dự án Luật.

Ngày 10 tháng 7 năm 2009, Hội đồng thẩm định (được thành lập theo Quyết định số 1729/QĐ-BTP của Bộ trưởng Bộ Tư pháp) đã tổ chức họp để thẩm định Dự án Luật. Về cơ bản, Hội đồng thẩm định đồng ý với nhiều nội dung của Dự án Luật và nhất trí trình Chính phủ. Tuy nhiên, thành viên Hội đồng cũng đưa ra một số ý kiến góp ý vào Dự án để Bộ Tư pháp hoàn thiện thêm một bước trước khi trình Chính phủ. Ý kiến của Hội đồng thẩm định đã được Bộ Tư pháp nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý Dự án Luật (xin xem Bản giải trình, tiếp thu ý kiến của Hội đồng thẩm định).

IV. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT

Dự thảo Luật gồm 5 chương 34 điều. Sau đây, Bộ Tư pháp xin báo cáo những nội dung cơ bản của Dự thảo Luật (về nội dung của từng điều, khoản của Dự thảo Luật, xin xem Bản thuyết minh chi tiết kèm theo):

1. Chương I – Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 8)

Nội dung của Chương này quy định về mục đích ban hành Luật, phạm vi điều chỉnh của Luật, giải thích từ ngữ, cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, phương thức cung cấp thông tin, các hành vi bị nghiêm cấm và mối quan hệ giữa Luật tiếp cận thông tin và các luật khác có liên quan.

2. Chương II – Thông tin được công khai rộng rãi (từ Điều 9 đến Điều 13)

Chương này quy định về các loại thông tin phải được công khai rộng rãi, hình thức công khai rộng rãi thông tin. Bên cạnh đó, nhằm bảo đảm cho thông tin được công khai rộng rãi và phổ biến đến nhân dân ở phạm vi rộng nhất, Luật quy định rõ các loại thông tin phải được công khai trên trang thông tin điện tử và công khai thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng. Ngoài ra, Dự thảo Luật cũng quy định việc công khai rộng rãi thông tin vì lợi ích cộng đồng, theo đó, ngay cả đối với những thông tin không thuộc loại phải công khai rộng rãi, trong trường hợp xét thấy việc công khai rộng rãi thông tin là cần thiết nhằm bảo vệ an toàn tính mạng, sức khoẻ của con người, bảo vệ môi trường vì lợi ích cộng đồng thì người đứng đầu cơ quan nắm giữ thông tin có trách nhiệm công khai thông tin trên trang thông tin điện tử của cơ quan hoặc các hình thức khác; kịp thời cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí, hệ thống truyền thanh cơ sở để công khai rộng rãi thông tin.

3. Chương III – Thông tin được cung cấp theo yêu cầu (từ Điều 14 đến Điều 25)

Chương III được chia làm 3 mục: Mục 1 quy định về thông tin và các hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu; mục 2 quy định về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin và mục 3 quy định về việc từ chi yêu cầu cung cấp thông tin. Tinh thần chung của Chương này là bảo đảm cho công dân, tổ chức yêu cầu được cung cấp thông tin một cách thuận tiện, nhanh chóng và ít tốn kém nhất. Theo đó, người yêu cầu có thể đưa ra yêu cầu bằng lời nói hoặc bằng văn bản với nhiều cách thức khác khau; cơ quan được yêu cầu có trách nhiệm xem xét, giải quyết kịp thời yêu cầu cung cấp thông tin; việc gia hạn giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin hoặc từ chối cung cấp thông tin chỉ được thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt.

4. Chương IV – Bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (từ Điều 26 đến Điều 30)

Chương IV quy định về trách nhiệm của cơ quan nắm giữ thông tin trong việc bảo đảm các nguồn lực và biện pháp cần thiết cho việc thực thi Luật. Bên cạnh đó, Chương này cũng quy định cụ thể cơ chế giải quyết khiếu nại, khiếu kiện; xử lý vi phạm; giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin và quản lý nhà nước về công tác bảo đảm quyền tiếp cận thông tin.

5. Chương V – Điều khoản thi hành (từ Điều 31 đến Điều 34)

Chương này quy định trách nhiệm của Chính phủ quy định các biện pháp bảo đảm việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin và quy định chi tiết một số điều của Luật; quy định cụ thể về việc cung cấp thông tin của tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Các quy định về điều khoản chuyển tiếp và thời điểm có hiệu lực của Luật cũng được quy định tại Chương này.

V. NHỮNG VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN CHÍNH PHỦ

Về cơ bản, ý kiến của Ban soạn thảo; ý kiến của các đại biểu tham gia tại các cuộc toạ đàm, hội thảo; ý kiến của các bộ, ngành đều nhất trí với nhiều nội dung của Dự thảo. Tuy nhiên, còn một số vấn đề sau đây còn có ý kiến khác nhau, Bộ Tư pháp xin ý kiến Chính phủ như sau:

1. Về tên gọi của Dự thảo Luật

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, nên lấy tên là "Luật tiếp cận thông tin", vì tên gọi như vậy thể hiện đầy đủ nội dung “quyền được thông tin” theo quy định tại Điều 69 của Hiến pháp, nhấn mạnh tính chủ động của công dân, tổ chức trong việc yêu cầu cung cấp thông tin, đồng thời làm rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức. Hơn nữa, tên gọi “Luật tiếp cận thông tin” cũng đã được ghi nhận trong Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, nên lấy tên gọi của Luật là "Luật về quyền được thông tin" vì việc ban hành Luật này là nhằm cụ thể hóa Điều 69 của Hiến pháp. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng xác định việc nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân.

Loại ý kiến thứ ba cho rằng, nên lấy tên gọi của Luật là "Luật cung cấp và tiếp nhận thông tin" vì từ “tiếp cận” gây cảm giác là người dân chưa thực sự có được thông tin cần thiết và từ này vẫn chưa thực sự quen thuộc với người dân Việt Nam.

Sau khi cân nhắc, Bộ Tư pháp thấy rằng loại ý kiến thứ nhất phù hợp hơn và đề nghị giữ tên gọi "Luật tiếp cận thông tin" như trong Nghị quyết số 27/2008/NQ-QH12 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2009 và bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII.

2. Về các chủ thể có trách nhiệm cung cấp thông tin (Điều 4 Dự thảo Luật)

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, chủ thể phải cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước bao gồm cơ quan quyền lực, cơ quan hành chính, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, vì các cơ quan này trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ đều tạo ra và nhận được nhiều thông tin liên quan đến đời sống xã hội, quyền và lợi ích của công dân, tổ chức. Do vậy, thông tin của các cơ quan này cần phải được công khai rộng rãi hoặc cung cấp theo yêu cầu. Hơn nữa, trong thời gian qua, bằng nhiều phương thức và ở những mức độ khác nhau, các cơ quan nêu trên cũng đã thực hiện việc cung cấp thông tin cho công dân, tổ chức.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, chủ thể phải cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước (bao gồm các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức do Thủ tướng Chính phủ thành lập, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước, quỹ được thành lập theo quy định của pháp luật), trừ tổ chức chính trị.

Loại ý kiến thứ ba cho rằng, chủ thể phải cung cấp thông tin là tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức có sử dụng tài sản, ngân sách nhà nước và tổ chức chính trị.

Sau khi cân nhắc, Bộ Tư pháp thấy rằng loại ý kiến thứ nhất có tính khả thi hơn, nhưng có bổ sung trách nhiệm của Chính phủ quy định cụ thể việc cung cấp thông tin của các tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước.

Còn các thông tin do các tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nắm giữ chủ yếu liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách. Việc cung cấp các loại thông tin này được thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành (Luật ngân sách nhà nước, Luật cán bộ, công chức, Luật quản lý và sử dụng tài sản công…) và điều lệ, quy chế của mỗi tổ chức, vì vậy, không cần thiết phải quy định trong Luật này.

3. Về phạm vi thông tin được quy định trong Dự thảo Luật (Điều 2 Dự thảo Luật)

Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, phải loại các thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời tư và bí mật kinh doanh ra khỏi phạm vi điều chỉnh của Luật này vì đã có quy định trong các văn bản pháp luật khác. Kinh nghiệm các nước cũng cho thấy luật tiếp cận thông tin của hầu hết các quốc gia đều không điều chỉnh việc cung cấp các loại thông tin này. Việc tiếp cận các thông tin này phải do các văn bản pháp luật riêng biệt điều chỉnh như Luật bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật bảo vệ bí mật nhà nước….

Loại ý kiến thứ hai cho rằng, Luật tiếp cận thông tin phải quy định đầy đủ các loại thông tin được tiếp cận, loại thông tin không được tiếp cận (thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời tư và bí mật kinh doanh).

Sau khi cân nhắc, Bộ Tư pháp thấy rằng loại ý kiến thứ nhất phù hợp hơn và xây dựng Dự thảo Luật theo hướng: việc tiếp cận thông tin thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; thông tin thuộc bí mật đời tư, bí mật kinh doanh được thực hiện theo pháp luật liên quan; thông tin đã được chuyển sang cơ quan lưu trữ được thực hiện theo pháp luật về lưu trữ; thông tin trong quá trình thanh tra, kiểm toán được thực hiện theo pháp luật về thanh tra, kiểm toán; thông tin liên quan đến vụ việc đang trong quá trình xử lý của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện theo pháp luật về tố tụng (khoản 2 Điều 2 Dự thảo Luật). Ngoài ra, Dự thảo Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin phải loại bỏ các thông tin thuộc bí mật nhà nước, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh trước khi thực hiện việc công khai rộng rãi hoặc cung cấp theo yêu cầu của công dân, tổ chức những thông tin mà việc công khai, cung cấp là cần thiết (điểm c khoản 2 Điều 4).

4. Về cơ quan giúp Chính phủ trong việc quản lý nhà nước về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin (Điều 30 Dự thảo Luật)

Để giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo đảm quyền tiếp cận thông tin và nhất là có cơ chế theo dõi, đánh giá việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin, Dự thảo Luật dự kiến giao cho một cơ quan của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này. Các cơ quan của Chính phủ có thể được giao là Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông. Mỗi cơ quan này đều có những lợi thế riêng trong việc thi hành Luật.

Với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Bộ Nội vụ có thuận lợi trong việc quản lý công tác lưu trữ hồ sơ, tài liệu và cán bộ, công chức; trong việc theo dõi, thống nhất việc thực hiện chủ trương cải cách hành chính và cũng có thuận lợi trong việc bảo đảm nguồn nhân lực cho việc thực thi Luật. Bộ Tư pháp có thuận lợi trong việc theo dõi, đánh giá về việc bảo đảm thi hành Luật trong quá trình theo dõi, đánh giá công tác thi hành pháp luật nói chung; có thuận lợi trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật, hướng dẫn thực thi Luật, tăng cường nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin cũng như nâng cao nhận thức của người dân về quyền tiếp cận thông tin. Còn Bộ Thông tin và Truyền thông phụ trách lĩnh vực báo chí, công nghệ thông tin, điện tử, có thuận lợi trong việc bảo đảm về cơ sở vật chất, kỹ thuật, đặc biệt là các phương tiện hỗ trợ cho việc tiếp cận thông tin.

Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng dù giao cho bộ nào thuộc Chính phủ thực hiện chức năng theo dõi, đánh giá việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin thì cơ chế này vẫn chưa hiệu quả, vì cơ chế giải quyết khiếu nại vẫn theo mô hình truyền thống – công dân có quyền khiếu nại đối với một quyết định từ chối cung cấp thông tin lên cơ quan cấp trên của cơ quan từ chối cung cấp thông tin. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, cơ chế này được đánh giá là ít tốn kém nhưng kém hiệu quả vì các cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính thường có xu hướng ủng hộ các quyết định từ chối cung cấp thông tin của cơ quan cấp dưới mà các cơ quan nhà nước thường có xu hướng không muốn cung cấp hoặc trì hoãn việc cung cấp thông tin, điều đó dẫn đến tình trạng quy định của luật dễ trở thành những tuyên bố mang tính hình thức, không có giá trị thực thi. Vì vậy, để bảo đảm việc thực thi Luật tiếp cận thông tin có hiệu quả, cần thành lập một Uỷ ban thông tin độc lập chuyên trách giám sát việc thực thi quyền tiếp cận thông tin như kinh nghiệm của một số nước (Slovenia, Serbia, Ireland và Vương quốc Anh…).

Sau khi cân nhắc, Bộ Tư pháp thấy rằng, trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam hiện nay, phương án thành lập một cơ quan độc lập chuyên trách bảo đảm việc thực thi quyền tiếp cận thông tin là chưa khả thi. Vì vậy, Dự thảo Luật thiết kế ba phương án về cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin để Chính phủ xem xét, quyết định: Phương án 1 – Bộ Nội vụ; Phương án 2 – Bộ Tư pháp, Phương án 3 – Bộ Thông tin và Truyền thông.

5. Về thời điểm có hiệu lực của Luật tiếp cận thông tin

Thông thường, các luật khác quy định thời điểm có hiệu lực từ 6 tháng đến 1 năm sau khi luật được thông qua. Riêng đối với Luật tiếp cận thông tin, Bộ Tư pháp dự kiến thời điểm có hiệu lực của Luật là sau 2 năm, kể từ ngày Luật được thông qua là nhằm bảo đảm thời gian cho việc chuẩn bị văn bản hướng dẫn và quy định chi tiết; nâng cao nhận thức và năng lực thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin của cán bộ, công chức; nâng cao nhận thức về quyền tiếp cận thông tin của công dân, tổ chức, đặc biệt là cần có thời gian để các cơ quan nhà nước trong phạm vi toàn quốc chuẩn bị các điều kiện cần thiết về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật, nguồn nhân lực nhằm chuẩn bị cho việc thi hành Luật. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, thời gian chuẩn bị này thường phải kéo dài từ 2 đến 5 năm như Vương quốc Anh (5 năm), Na Uy (3 năm), Nhật Bản (2 năm)…

Trên đây là những nội dung chính liên quan đến Dự án Luật tiếp cận thông tin, Bộ Tư pháp xin trình Chính phủ xem xét, quyết định./.

(Hồ sơ kèm theo gồm Dự thảo Luật; Bản thuyết minh chi tiết về Dự thảo Luật; Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật; Báo cáo của Hội đồng thẩm định; Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến Hội đồng thẩm định; Bản tổng hợp ý kiến góp ý về Dự thảo; Bản giải trình, tiếp thu ý kiến góp ý vào Dự thảo).

BỘ TRƯỞNG

Hà Hùng Cường


[1] Khoản 2 Điều 19 của Tuyên ngôn thế giới về quyền con người quy định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền bằng miệng, bằng bản viết, in hoặc dưới hình thức nghệ thuật, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào tuỳ theo sự lựa chọn của họ".

[2] Công ước này được Việt Nam phê chuẩn ngày 30 tháng 6 năm 2009.

[3] Tính đến năm 2009, đã có 86 nước ban hành Luật về tiếp cận thông tin,. Nước đầu tiên ban hành Luật liên quan đến quyền tiếp cận thông tin là Thụy Điển (năm 1766), sau đó một số nước khác cũng có đạo luật riêng như Mỹ ban hành luật Tự do thông tin (năm 1966), Canada (1983), Hungary (1992), Anh (2000), Nam Phi (2000), Slovenia (2003)… Ở châu Á, một số nước đã ban hành Luật này như Thái Lan (12-1997), Hàn Quốc (1-1998), Nhật Bản (4-2001), Ấn Độ (2005), Inđônêxia, Trung Quốc (5-2007),… Một số quốc gia khác cũng đang trong quá trình chuẩn bị ban hành luật này hoặc ban hành nghị định riêng để điều chỉnh về vấn đề này.

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading