admin@phapluatdansu.edu.vn

KỸ NĂNG CHUẨN BỊ HỒ SƠ BÁN BẤT ĐỘNG SẢN

clip_image002Sau khi ký hợp đồng sơ bộ, công chứng viên phải chuẩn bị hồ sơ bán bất động sản.

Công chứng viên phải tiến hành xác minh những vấn đề cơ bản sau đây trước khi hợp thức hoá một hợp đồng mua bán bất động sản theo thoả thuận.

Các vấn đề cần xác minh được trình bày theo nhóm như sau:

– Năng lực và quyền hạn của các bên (I)

– Bất động sản là đối tượng của hợp đồng (II)

– Giá trị hợp đồng (III)

– Thuế (IV).

I. Năng lực của các bên

Công chứng viên phải xác minh năng lực của các bên.

Các quy định của Bộ luật Dân sự về năng lực của các bên trong hợp đồng được áp dụng đối với trường hợp mua bán bất động sản.

Continue reading

BÁO CÁO KINH NGHIỆM QUỐC TẾ TRONG QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG

Môi trường là lĩnh vực rộng, đa dạng. Việc phân tích, đánh giá, học tập kinh nghiệm quốc tế cần được tiến hành vừa phải rộng rãi, toàn diện nhưng phải trọng tâm, trọng điểm, cụ thể cho các vấn đề, nhóm vấn đề. Theo đó, cần phân tích để đánh giá tổng quan chung hệ thống pháp luật về BVMT tại một số nước có điều kiện tự nhiên – kinh tế – xã hội tương đồng với Việt Nam nhưng trình độ phát triển hơn Việt Nam từ 15 đến 20 năm ở Đông Nam Á, châu Á và một số nước có trình độ phát triển cao thuộc châu Âu, châu Mỹ, châu Úc và phân tích, đánh giá các hướng dẫn, mô hình của một số tổ chức quốc tế và các quy định của một số nước để cung cấp cơ sở lý luận, đề xuất áp dụng cho Việt Nam về một số nội dung mới hoặc có nhiều vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Luật.

Việc phân tích, đánh giá, học hỏi kinh nghiệm quốc tế tập trung vào các nội dung (nhóm vấn đề) chính như sau:

1- Phân tích, đánh giá về hệ thống pháp luật và các quy định về BVMT trên Thế giới;

2 – Phân tích, đánh giá cơ cấu tổ chức, nguồn lực thực hiện công tác quản lý BVMT của các nước trong khu vực và trên Thế giới;

3 – Phân tích, đánh giá các nội dung quy định trong luật BVMT và kinh nghiệm xây dựng Luật BVMT của một số quốc gia trên Thế giới (Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore, Thái Lan….); Continue reading

THAY ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG VÀ CHUYỂN ĐỔI MỤC ĐÍCH SỬ DỤNG NHÀ, CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG Ở CỘNG HÒA PHÁP

  Tác giả chưa cập nhật – Nội dung và bản dịch thuộc Nhà Pháp luật Việt – Pháp

Một cách khái quát, chúng tôi sẽ giới thiệu về phạm vi áp dụng của những quy định nhằm bảo vệ diện tích nhà ở tại những thành phố lớn đã được ban hành.

Sự kiểm soát việc thay đổi chế độ sử dụng được áp dụng ở vùng Paris, tại các thành phố thuộc các tỉnh vành đai ngoài Paris (Haute-de-Seine, Val-de-Marne, Seine-SaintDenis) và tại các thành phố/xã có hơn 200 000 dân.

Các thành phố khác có thể triển khai chế độ kiểm soát này sau khi hội đồng thành phố phê duyệt dựa trên đề xuất của thị trưởng (hoàn toàn không bắt buộc) và việc kiểm soát này chỉ áp dụng đối với một phần của thành phố.

Tại các thành phố này, những căn nhà có mục đích sử dụng làm nơi ở không thể được chuyển đổi sang mục đích khác (nghề nghiệp, thương mại…) trừ khi có sự cho phép trước.

Continue reading

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LUẬT HÓA ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN

 OLIVIER GOUSARD – Công chứng viên, Cộng hòa Pháp

1. Những vấn đề chung

 Nước Pháp của chúng tôi có một hệ thống pháp luật về đăng ký đất đai rất rõ ràng và cụ thể vì thủ tục đăng ký đất đai đã được quy định hết sức chi tiết trong các văn bản quy phạm pháp luật. Việt Nam cũng cần đi theo hướng này. Ở Pháp, các thủ tục đăng ký bất động sản (đăng ký quyền, đăng ký các văn bản, hợp đồng) rất rõ ràng và chi tiết. Thực vậy, các thủ tục về đăng ký đất đai cụ thể tới cấp độ tên, mô tả địa chính… Chính vì thế tôi rất ủng hộ quan điểm xây dựng một văn bản pháp luật về các thủ tục đăng ký bất động sản. Chúng ta chỉ có thể có các thông tin về bất động sản được bảo mật khi chúng ta có các thông tin chi tiết nhất có thể.

Từ bài phát biểu của bà Hiền[1] tôi nhận thấy yêu cầu đặt ra là hệ thống đăng ký bất động sản phải phù hợp với Hiến pháp. Về điểm này, theo pháp luật của Pháp, hệ thống đăng ký bất động sản mà công chúng có thể yêu cầu cung cấp thông tin phải tôn trọng các quy định pháp luật của Nhà nước và tôn trọng các quyền tự do cá nhân. Hệ thống đăng ký đất đai phải cho phép cung cấp các thông tin có thật và giúp Nhà nước thu thuế hiệu quả. Nhiệm vụ đặt ra cho mỗi Nhà nước là phải đảm bảo nguồn thu ngân sách mà chìa khóa của công tác này chính là việc phải đảm bảo được việc thu thuế.

Continue reading

NHÂN TỐ CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG LÊN GIÁ NHÀ ĐẤT Ở ĐỘ THỊ – TÌNH HUỐNG VIỆT NAM

TS. NGUYỄN NGỌC VINH – Đại học Kinh tế TP.HCM

Tóm tắt

Giá nhà đất ở đô thị (GNĐƠĐT) có ý nghĩa quan trọng trong việc mua nhà ở ổn định cuộc sống của phần lớn cộng đồng dân cư, nhưng thực tế GNĐƠĐT nước ta luôn duy trì ở mức cao vượt qua khả năng chi trả của đại đa số cư dân đô thị. Do vậy, nhận diện chính xác những nhân tố tác động đến GNĐƠĐT luôn là thách thức đối với các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách. Nghiên cứu của tác giả tập trung vào việc phân tích nhân tố chính sách tác động lên GNĐƠĐT và đã nhận diện rằng: GNĐƠĐT ở nước ta tăng cao có hai nguyên nhân trực tiếp, đó là phát sinh những bất cập trong việc thay đổi cách tính tiền sử dụng đất và chi phí sử dụng vốn cho dự án đầu tư vào bất động sản rất cao. Dựa trên phân tích những bất cập làm cho GNĐƠĐT tăng, tác giả đề xuất 4 kiến nghị nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong các văn bản pháp quy, tìm giải pháp giảm GNĐƠĐT tiệm cận với khả năng chi trả của cộng đồng, góp phần phát triển công tác an sinh xã hội.

1. Đặt vấn đề

Nghịch lý cho thấy thị trường nhà, đất ở nước ta từ năm 2008 đến nay trong giai đoạn trầm lắng nhưng giao dịch nhà đất ở đô thị vẫn tăng, giá cao đã vượt qua khả năng chi trả của đa số cộng đồng dân cư có nhu cầu về nhà ở nhưng có thu nhập thấp, bài toán an sinh xã hội của Chính phủ trở nên khó giải quyết.

Continue reading

CÔNG VĂN SỐ 703/BTNMT-TCQLĐĐ NGÀY 14 THÁNG 2 NĂM 2020 CỦA BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG VỀ VIỆC HƯỚNG DẪN CHẾ ĐỘ SỬ DỤNG ĐẤT VÀ VIỆC CHỨNG NHẬN QUYỀN SỞ HỮU CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG KHÔNG PHẢI LÀ NHÀ Ở

Kính gửi: Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Thực hiện Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2019 của Thủ tướng Chính phủ về một số giải pháp thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, trong đó giao Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về chế độ sử dụng đất đối với một số loại hình bất động sản mới (căn hộ du lịch, biệt thự du lịch, văn phòng kết hợp lưu trú …) theo đúng quy định của pháp luật, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn về chế độ sử dụng đất và việc chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng không phải nhà ở như sau:

1. Về chế độ sử dụng đất, thời hạn sử dụng đất

Theo quy định tại Điều 48 của Luật du lịch năm 2017 thì căn hộ du lịch, biệt thự du lịch là cơ sở lưu trú du lịch và việc kinh doanh dịch vụ lưu trú tại các căn hộ du lịch, biệt thự du lịch thuộc loại hình kinh doanh dịch vụ du lịch và thuộc nhóm ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống quy định tại Danh mục Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ngày 06/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ ban hành hệ thống ngành kinh tế Việt Nam.

Continue reading

NHỮNG VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ QUYỀN SỞ HỮU NHÀ

THS. HUỲNH XUÂN TÌNH – Thẩm phán TAND Tp Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang

Việc phân biệt giao dịch về nhà ở với giao dịch về quyền sử dụng đất có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Đây chính là tiền đề để chúng ta áp dụng đúng quy định của pháp luật khi Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết. Nếu là giao dịch về nhà ở thì áp dụng pháp luật về nhà ở; ngược lại, nếu là giao dịch về quyền sử dụng đất thì áp dụng pháp luật về đất đai. Đây là vấn đề phức tạp nhưng lại có tính thời sự, thực tiễn cấp bách mà không phải ai cũng nhận biết rõ và áp dụng đúng trên thực tế. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này, tác giả nêu lên một số vấn đề cơ bản còn vướng mắc và chưa được áp dụng thống nhất trong thực tiễn xét xử.

Thứ nhất, về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng mua bán nhà ở và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Trong bài viết nhận diện giao dịch về nhà ở [1], tác giả Chu Xuân Minh có nêu Ví dụ: Thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng mua bán nhà ở, theo quy định của khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở là “thời điểm công chứng, chứng thực hợp đồng”. Thời điểm có hiệu lực của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, theo quy định tại khoản 3 Điều 188 Luật Đất đai là “thời điểm đăng ký vào sổ địa chính”. Như vậy, một giao dịch về bất động sản đã có công chứng nhưng chưa được đăng ký ở cơ quan đăng ký đất đai, nếu xác định là hợp đồng mua bán nhà ở thì hợp đồng này đã có hiệu lực, nhưng nếu xác định là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì hợp đồng này chưa có hiệu lực (vô hiệu).

Continue reading

KINH NGHIỆM NHẬT BẢN VÀ YÊU CẤP BÁCH CẦN XÂY DỰNG, BAN HÀNH LUẬT ĐĂNG KÝ TÀI SẢN Ở NƯỚC TA

NGUYỄN PHƯỚC THỌ – Văn phòng Chính phủ

1. Một số hạn chế của chế độ đăng ký tài sản ở Việt Nam

Ở nước ta, bên cạnh những mặt được, chế độ đăng ký tài sản còn nhiều hạn chế. Cụ thể là hiện nay có tới 14 đạo luật[1] và rất nhiều văn bản dưới luật quy định về đăng ký tài sản. Các quy định của pháp luật hiện hành về đăng ký tài sản không chỉ phân tán, chưa bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, mà điều bất hợp lý nhất là mới chỉ tập trung phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước (đối với bất động sản (BĐS), chỉ thực hiện đăng ký tình trạng vật lý: vị trí, diện tích, danh tính chủ sở hữu hoặc có quyền sử dụng), chưa tạo lập cơ sở cho việc đăng ký và công khai, minh bạch những diễn biến và thực trạng các mối quan hệ quyền lợi đối với từng tài sản, nhất là BĐS. Việc công khai, minh bạch và khả năng cá nhân, tổ chức tiếp cận đầy đủ, chính xác các thông tin về BĐS rất hạn chế và khó khăn, do đó, đang gây nhiều ách tắc, rủi ro cho các giao dịch kinh tế, dân sự trong xã hội. Các quyền về tài sản không được giao dịch một cách minh bạch, an toàn và thuận lợi. Nhà nước khó quản lý, không thu được nhiều khoản thuế. Continue reading

TÌNH HUỐNG THỰC TẾ: TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN GẮN LIỀN VỚI ĐẤT

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ thì nội dung vụ án như sau: Đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH sản xuất và thương mại V (sau đây gọi tắt là Công ty V) là ông Nguyễn Duy V và người đại diện theo ủy quyềncủa ông V là bà Nguyễn Thị M trình bày: Ngày 29/10/2010 ông V đại diện cho Công ty V ký hợp đồng chuyển nhượng tài sản gắn liền với đất cho bà Khuất Thị H tại Văn phòng công chứng C (viết tắt là VPCC C). Tài sản theo hợp đồng gồm:

– Nhà văn phòng: Định vị công trình như tổng mặt bằng thiết kế kèm theo giấy phép xây dựng số 103, do Sở xây dựng Bắc Ninh cấp ngày 16/6/2009; loại công trình cấp IV; chiều cao công trình 13,25m; diện tích xây dựng 155,25m2; diện tích sàn 465,75m2; kết cấu khung BTCT chịu lực mái lợp tôn, tường bao xây gạch;

– Nhà xưởng: Định vị công trình như tổng mặt bằng thiết kế kèm theo giấy phép xây dựng số 103, do Sở xây dựng Bắc Ninh cấp ngày 16/6/2009; loại công trình cấp IV; số tầng 01; diện tích xây dựng 1.850m2; tổng diện tích sàn 1.850m2; chiều cao công trình 9,3m tính từ sân đến đỉnh mái; kết cấu khung kèo thép, tường bao xây gạch, mái tôn.

Tài sản trên được xây dựng trên thửa đất số 9, tờ bản đồ số 06, đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) số AO 402469 do UBND tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 17/4/2009 mang tên Công ty V. Tuy nhiên khi ký hợp đồng không có các tài sản ghi trong hợp đồng, mà chỉ có nhà văn phòng xây thô năm 2009 (chưa trát, chưa có cổng cửa, chưa lát nền), không có nhà xưởng và tường bao quanh đất. Nội dung hợp đồng là ghi theo giấy phép xây dựng được cấp, đến tháng 6/2014 Công ty mới xây nhà xưởng và hoàn thiện nhà văn phòng. Ông V ký hợp đồng này do yêu cầu của bà H nhằm mục đích cho bà M (vợ ông V) vay của bà H 05 tỷ đồng. Công ty không ủy quyền cho bà M thay mặt công ty để vay tiền bà H. Khi ký hợp đồng tại VPCC C thì ông V không có bản chính GCNQSDĐ của Công ty V vì bà M đã mang thế chấp cho bà H. Giá trị tài sản ghi trong hợp đồng là 05 tỷ đồng, nhưng thực tế không có việc giao nhận tiền giữa ông V và bà H, không có việc bàn giao tài sản chuyển nhượng. Ngày 27/10/2014 Công ty V ký hợp đồng cho Công ty S thuê toàn bộ tài sản nêu trên đến tháng 8/2019, giá thuê là 9.907USD/tháng. Công ty S đã trả cho Công ty V 3.544.811.105đ tiền đặt cọc, tiền làm hệ thống phòng cháy chữa cháy, tiền thuê năm thứ nhất và một phần tiền thuê năm thứ hai. Sau khi thuê Công ty S đầu tư xây dựng các hạng mục với tổng số tiền là 3.229.742.600đ. Nay Công ty V yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng ngày 29/10/2010 đã ký giữa Công ty V và bà Khuất Thị H, đồng thời yêu cầu bà H trả lại GCNQSDĐ cho Công ty. Continue reading

GIẢI ĐÁP MỘT SỐ VƯỚNG MẮC VỀ HÌNH SỰ, DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO TẠI VĂN BẢN SỐ 64/TANDTC-PC NGÀY 3 THÁNG 4 NĂM 2019 (Trích dẫn)

Kính gửi: – Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự;

– Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.

Ngày 09-01-2019, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã tổ chức buổi giải đáp trực tuyến toàn quốc về một số vướng mắc trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự và hành chính. Trên cơ sở các ý kiến phản ánh vướng mắc và giải đáp của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao thông báo kết quả giải đáp vướng mắc như sau:

VỀ DÂN SỰ

1. Trường hợp giao dịch chuyển nhượng nhà đất bị vô hiệu nhưng bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và đã thế chấp nhà, quyền sử dụng đất đó cho Ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật. Vậy giao dịch thế chấp đó có bị vô hiệu không?

Tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự quy định:

“…2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa. …”

Theo Bản thuyết minh Dự án Bộ luật Dân sự năm 2015 của Ban soạn thảo thì quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự là nhằm: …Bảo đảm công bằng, hợp lý đối với người thiện chí, ngay tình và bảo đảm sự ổn định trong các quan hệ dân sự (các Bộ luật dân sự trên thế giới đều ghi nhận việc bảo vệ người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự)…”. Cho nên, cụm từ chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác” tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Dân sự phải được áp dụng theo nghĩa rộng. Có nghĩa là: Không chỉ có những giao dịch nhằm chuyển giao quyền sở hữu như: Hợp đồng mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn nhà ở; chuyển nhượng, chuyển đổi, góp vốn bằng quyền sử dụng đất… mà cả những giao dịch nhằm chuyển giao những quyền về sở hữu đối với tài sản hoặc quyền về sử dụng đối với thửa đất.

Continue reading

GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN CHUNG CƯ Ở VIỆT NAM TỪ QUAN ĐIỂM BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

PHAN THỊ THANH THỦY – Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Đề dẫn

Từ đầu năm 2000 đến nay, do tốc độ đô thị hóa gia tăng mạnh mẽ ở các đô thị lớn, hàng loạt nhà chung cư được xây dựng ồ ạt để đáp ứng nhu cầu nhà ở cho người dân thành phố khi quỹ đất ở ngày càng hẹp lại. Các tranh chấp giữa người bán – các chủ đầu tư (CĐT) và người mua trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán chung cư (HĐMBCC) cũng bùng phát mạnh mẽ về cả số lượng lẫn tính phức tạp. Sự xung đột lợi ích giữa hai bên do không được nhìn nhận và giải quyết thấu đáo bởi các bên có liên quan và cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã dẫn đến tranh chấp đối đầu gay gắt, và gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực đối với đời sống và sinh hoạt của cư dân, ảnh hưởng đến sự ổn định trật tự – xã hội tại địa bàn có dự án.

Bài viết này sẽ tập trung vào làm rõ bản chất và các đặc điểm của tranh chấp phát sinh từ HĐMBCC, các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp và đưa ra những gợi mở v ề giải pháp nhằm giảm thiểu xung đột và giải quyết tranh chấp hiệu quả từ góc nhìn bảo vệ người tiêu dùng (NTD). Về phạm vi, bài viết chỉ giới hạn trong các tranh chấp phát sinh từ HĐMBCC giữa CĐT và người mua thuộc các dự án xây dựng và kinh doanh chung cư thương mại, không đề c ập đến loại hình chung cư do cá nhân/ hộ gia đình tự xây dựng để kinh doanh chỗ ở. Bài viết cũng không mở rộng đến các tranh chấp phát sinh trong quá trình quản lý và sử dụng chung cư ở giai đoạn hậu mãi.

2. Khái quát về hợp đồng mua bán chung cư

HĐMBCC được ký kết giữa người bán – CĐT- với người mua (khách hàng). Theo đó CĐT thu được một khoản tiền nhất định và chuyển giao quyền sở hữu căn hộ cho người mua. Ngược lại, người mua trả tiền và trở thành chủ sở hữu căn hộ (chủ hộ).

Continue reading

GIẢI ĐÁP SỐ 02/GĐ-TANDTC NGÀY 19 THÁNG 9 NĂM 2018 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO VỀ MỘT SỐ VƯỚNG MẮC TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC HÀNH CHÍNH

                   
   
                Kính gửi:

                                             – Các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự;

                                             – Các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao.

Qua thực tiễn công tác xét xử, Tòa án nhân dân tối cao nhận được phản ánh của các Tòa án về một số vướng mắc trong giải quyết các vụ án hành chính. Để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật, Tòa án nhân dân tối cao có ý kiến như sau:

1. Trong vụ án hành chính, cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường có được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không?

Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 4 của Luật Thanh tra thì Thanh tra sở là một trong những cơ quan thanh tra nhà nước.

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 61 của Luật Tố tụng hành chính thì “cán bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, Thi hành án; công chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an” không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự trong vụ án hành chính.

Do đó, theo các quy định nêu trên thì cán bộ, thanh tra viên chuyên ngành của Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường không được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh trong vụ án hành chính.

2. Phiếu chuyển thông tin để xác định nghĩa vụ tài chính về đất đai do Văn phòng đăng ký đất đai lập có phải là quyết định hành chính không? Có được coi là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không?

Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật Tố tụng hành chính thì quyết định hành chính là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính được hiểu như sau:

Continue reading

VAI TRÒ CỦA ĐĂNG KÝ VÀ CUNG CẤP THÔNG TIN TÀI SẢN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP DÂN SỰ, HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, KINH DOANH, THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN

 TƯỞNG DUY LƯỢNG – Nguyên Phó Chánh án TANDTC

1. Vài nét khái quát về pháp luật đăng ký tài sản

Theo Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm (GDBĐ), hiện có khoảng 64 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ. Trong đó có Hiến pháp, 26 Luật, Bộ luật; 18 Nghị định; 19 Thông tư; 01 Quyết định của Bộ trưởng.

Các quy định về đăng ký do nhiều cơ quan thực hiện với với mục đích khác nhau. Có trường hợp đăng ký với ý nghĩa là đăng ký xác định quyền sở hữu tài sản, sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất (SDĐ) hoặc quyền khác về tài sản, có quy định về đăng ký với ý nghĩa để sử dụng, lưu hành, có những quy định về đăng ký nhằm mục đích để kiểm duyệt, lưu hành (như đối với thuốc thú y, dược, hóa chất…)…

Dù số lượng văn bản không phải là ít nhưng có thể nhận thấy, pháp luật về đăng ký tài sản, đăng ký GDBĐ hiện nay không những chưa đầy đủ (những loại tài sản, quyền tài sản nào bắt buộc phải đăng ký, những trường hợp để bảo đảm đối kháng với người thứ ba, và những tài sản nào thuộc diện đăng ký tự nguyện) mà còn rất tản mạn, được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.

– Trong Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 có một số điều quy định về đăng ký tài sản hoặc liên quan đến đăng ký tài sản, ví dụ Điều 106 quy định: quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được đăng ký theo quy định của BLDS và pháp luật về đăng ký tài sản, việc đăng ký tài sản phải được công khai (Quyền khác đối với tài sản có nhiều nội dung được bổ sung, sửa đổi nhưng cho đến nay chưa có văn bản nào quy định về thủ tục đăng ký quyền khác đối với tài sản được thực hiện như thế nào); Điều 133 quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình khi người này dựa vào việc tài sản được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền để tham gia giao dịch; Điều 297, khoản 2 Điều 298 quy định về biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm và thời điểm bắt đầu có hiệu lực đối kháng với người thứ ba là từ thời điểm đăng ký; về biện pháp bảo đảm là cầm cố, thế chấp (khoản 2 Điều 310, khoản 2 Điều 319), Bộ luật cũng quy định hiệu lực đối kháng với người thứ ba từ thời điểm đăng ký giao dịch.

Continue reading

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d bloggers like this: