admin@phapluatdansu.edu.vn

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ĐÔNG DƯƠNG

LÊ XUÂN PHÁN Cựu nghiên cứu sinh tại Đại học Lyon, Cộng hòa Pháp

Kỳ 1:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ĐÔNG DƯƠNG: 15 năm tỏa sáng ngắn ngủi


“Ta hãy tưởng tượng một diễn đài với những hàng nghế bọc nỉ xanh từ trên cao xuống thấp dần, trước mắt là một sân khấu rộng rãi với một cái bàn rộng lớn phủ nỉ xanh và một chiếc ghế bành đồ sộ, vị giáo sư mặc áo thụng đen, phía trước ngực đeo ngù đỏ và ba hàng băng lông thỏ trắng toát trịnh trọng diễn giảng. Sau lưng ông ta là bức tường hình vòng cung trên vẽ phong cảnh với hàng chữ lớn thiếp vàng tiếng La tinh có nghĩa là: “Đại học ban cho ta kiến thức, phẩm giá, hạnh phúc”. Riêng quang cảnh này cũng đã khiến cho các người nghe trở nên nghiêm nghị, cảm thấy mình đang dự một buổi lễ, không còn ý tưởng phá rối trật tự nữa. Khỏi cần nói là trong bầu không khí trang nghiêm ấy, kẻ diễn giảng dễ có cảm tưởng là mình đang thi hành một sứ mạng cao cả, còn sinh viên ngồi nghe có ảo tưởng là mình thuộc thành phần ưu tú của xã hội. Đây không phải là một xảo thuật của nhà cầm quyền Pháp ở Đông Dương nhằm nêu cao uy tín của nền đại học Pháp mà chỉ là một truyền thống của nền đại học ấy trước khi xảy ra phong trào cách mạng năm 1968”.1

Đoạn hồi ký trên của một cựu sinh viên trường Đại học Luật Đông Dương đã cho chúng ta ngược dòng thời gian để như được chứng kiến không khí một giờ học trên đại giảng đường Đại học Đông Dương thời kỳ trước khi Nhật đảo chính Pháp, một không khí nghiêm trang của lớp Đại học Luật năm thứ nhất.

Vạn sự khởi đầu nan

Ngày 15/2/1932, tại Đại Giảng đường Đại học Đông Dương, chính quyền tổ chức lễ khánh thành và khai giảng trường Đại học Luật Đông Dương được thành lập tại theo sắc lệnh ngày 11.09.1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp, Paul Doumer Nguồn: Gouvernement général de l’Indochine – Direction de l’Instruction publique, Annale de l’Université de Hanoi, Tome 1, Hanoi, Imprimerie d’Extrême-Orient

Sự ra đời của Đại học Luật khá gian truân. Ban đầu, Việt Nam chỉ có trường Pháp Chính (École de Droit et d’Administration) như một thành viên của Đại học Đông Dương nhưng thời kì đó, nội dung và phương pháp đào tạo của trường chỉ ngang với một trường trung cấp chuyên nghiệp. Sau đó, chính quyền Pháp tại Đông Dương gửi một dự án về Paris yêu cầu thành lập một ban luật trong trường, để đáp lại thỉnh cầu của nhiều gia đình người Pháp và người Đông Dương không muốn gửi con sang nước Pháp xa xôi để học cao hơn. Đề án này sau đó đã dẫn đến sự sáp nhập của trường Pháp Chính và trường Văn Chương (École des Lettres, mới thành lập năm 1923, cũng là một thành viên của Đại học Đông Dương) để trở thành Trường Cao học Đông Dương (École des Hautes Études indochinoise) nhằm bồi dưỡng giáo dục, nâng cao trình độ tầng lớp tinh hoa bản địa với chương trình được nâng cấp như giảng dạy về hành chính, pháp lý trọng yếu và vấn đề lớn thuộc kinh tế và xã hội của thời đại. Ngoài ra còn có lớp về triết học và văn học Việt – Hoa.

Tuy nhiên, Trường Cao học Đông Dương vẫn chưa thỏa mãn ước muốn người dân và hệ thống hành chính của Pháp ở Việt Nam. Trường buộc phải tiến lên một bước nữa để thành một cơ sở giáo dục đại học thực sự. Một cuộc thăm dò dư luận được thực hiện vào năm 1928 bởi Nha học chính đã chỉ ra rằng chỉ có thể là một cơ sở giáo dục đại học giống như bên Pháp thì mới thu hút và tuyển sinh được số lượng đầy đủ sinh viên. Và người ta sẽ có thể tuyển được khoảng 70 sinh viên cho năm đầu. Hơn nữa, một cuộc cải cách như vậy được thực hiện sẽ cho phép người Đông Dương được đào tạo về luật sẽ đủ khả năng thay thế vào nhiều vị trí mà người âu đang nắm giữ. Yêu cầu về việc mở trường đại học đào tạo cử nhân luật được đặt ra.2 Đến năm 1932, trường Luật Đông Dương mới chính thức được hình thành.

Khóa đầu tiên của trường Luật Đông Dương có 21 sinh viên cũ của Trường Cao học Đông Dương chuyển sang và 18 tân sinh viên mới được tuyển chọn. Ngoài các giảng viên của trường, các chuyên gia về luật là viên chức tại thuộc địa cũng tham gia vào việc giảng dạy. Tuy nhiên, sau khi thành lập, trường Luật Đông Dương không có một khởi đầu suôn sẻ. Trong giai đoạn ‘quá độ’ mới chuyển đổi từ Trường Cao học Đông Dương sang trường Luật Đông Dương, trường mãi vẫn chưa bắt đầu đào tạo cử nhân luật.


Tin về sự ra đời của trường Đại học Luật Đông Dương trên Pháp viện báo (Revue Judiciaire Franco-Annamite) năm 1932.

Thất vọng vì phải chờ đợi quá lâu, sinh viên Bùi Quang Tới và Từ Bộ Hứa3 đại diện cho 41 người đã viết một thỉnh nguyện thư ký ngày 28/11/1932 để đề nghị những người có trách nhiệm cần nhanh chóng khai giảng lớp cử nhân luật. “Chúng tôi đã chờ đợi việc mở lớp cử nhân luật trong sự thiếu kiên nhẫn, và chúng tôi vẫn còn phải tiếp tục chờ đợi. Thời gian thì cứ trôi, sự chờ đợi thật khó khăn, huống chi trong số chúng tôi tuổi thanh xuân đại học không thể kéo dài. Cho phép chúng tôi được gửi tới ngài Toàn quyền tâm thư này với sự trân trọng và mong ngài cho mở những lớp cử nhân luật sớm nhất có thể, vì sự chậm sẽ tương đương cho các ngài một sự mất mát về thời gian và tiền bạc”.4

Theo GS. Jean Escarrat, khi đến Trường Luật vào cuối năm 1933, ông đã có một báo cáo gửi về Pháp sau đó, ông nhận xét rằng ở Đông Dương cũng như phần đa ở các thuộc địa của Pháp, luôn tồn tại một nhóm người mà có thể gọi là “phái thực dân già” (parti vieux colonial), phái này mong muốn luôn nhìn thấy nhân dân thuộc địa trong điều kiện thấp kém, không được hưởng những lợi ích chung và họ muốn chỉ vài người trong số dân Đông Dương có thể đến được với vị trí cao. Theo ông, đó là một xu hướng trái ngược với việc thành lập trường Đại học Luật Hà Nội.16

Có thể lý giải cho sự chậm chễ này là do mới thành lập, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, trường cần thời gian để chuẩn bị và tổ chức. Hoặc sự ra đi đột ngột của Tổng thống Paul Doumer, người ký sắc lệnh thành lập Đại học Luật Đông Dương cũng có thể là một nguyên nhân. Tuy nhiên cũng có thể có một lý do khác. Theo giáo sư Jean Escarrat, khi đến Trường Luật vào cuối năm 1933, ông đã có một báo cáo gửi về Pháp sau đó, ông nhận xét rằng ở Đông Dương cũng như phần đa ở các thuộc địa của Pháp, luôn tồn tại một nhóm người mà có thể gọi là “phái thực dân già” (parti vieux colonial), phái này mong muốn luôn nhìn thấy nhân dân thuộc địa trong điều kiện thấp kém, không được hưởng những lợi ích chung và họ muốn chỉ vài người trong số dân Đông Dương có thể đến được với vị trí cao. Theo ông, đó là một xu hướng trái ngược với việc thành lập trường Đại học Luật Hà Nội.5

Học luật đã khó, làm luật sư còn khó hơn

Cuối cùng, may mắn là lớp cử nhân luật đã được khai giảng vào ngày 13/2/1933. Bài giảng đầu tiên cho lớp cử nhân được thực hiện bởi giáo sư luật Bienvenue, đến từ khoa luật chính quốc Pháp, đồng thời là Hiệu trưởng trường Luật Đông Dương. Ngoài ra còn có các giảng viên, giáo sư luật khác là ông And về luật La Mã và lịch sử luật, ông Kherian về kinh tế chính trị và luật dân sự. Vì lớp cử nhân luật khai giảng muộn, để đảm bảo tiến độ năm học, thời gian học trong năm học đã phải tăng lên.6

Nếu như các Trường Pháp Chính, Trường Cao học khi trước hoàn toàn chỉ dành cho sinh viên Đông Dương thì trường Luật mới được mở còn dành cho cả sinh viên người Pháp để theo học bằng cử nhân luật. Theo giáo sư Le Bras, người được Bộ Thuộc địa giao nhiệm vụ thanh tra trường luật Hà Nội năm 1936, thì ngoài việc đào tạo cử nhân luật, trường còn phải góp phần vào sự tiến bộ về hiểu biết ở Đông Dương và vào sự phổ biến khoa học pháp lý Tây phương ở vùng Viễn Đông.7

Danh sách các môn học ở Trường Luật Đông Dương trong 3 năm học.

Việc học tập của sinh viên khá linh hoạt, không nhất thiết phải có mặt đầy đủ thời gian trên lớp, nhưng phải vượt qua được kỳ kiểm tra đánh giá để được học tiếp hoặc tốt nghiệp. Vũ Quốc Thúc, sinh viên khóa bảy, về sau trở thành Thống đốc Ngân hàng ở miền Nam trước năm 1975 từng viết:

“Ở trường Luật tôi cảm thấy hoàn toàn tự do, không bị gò bó bởi kỷ luật khắt khe nào như là lúc học trung học. Chẳng hạn nếu bận việc riêng, tôi có thể vắng mặt trong các buổi diễn giảng ở đại giảng đường, không sợ bị một sự chế tài nào miễn là mượn được tài liệu do các bạn cùng lớp ghi chép. Cùng lắm, tôi vẫn có thể vào thư viện tìm đọc các sách giáo khoa để hiểu xem giáo sư đã nói gì. Lời đồn là các sinh viên Luật học ở Pháp cả ngày ngồi ở quán cà phê mà cuối năm thi vẫn đậu quả thực không sai. Chính vì thế mà nhiều sinh viên nghèo vẫn có thể vừa đi làm kiếm tiền vừa đi học, khác hẳn ở trường Y khoa, nơi đó sự hiện diện hàng ngày là một bổn phận”. 8

Trường đã vượt qua khó khăn để thành một cơ sở giáo dục xứng đáng với cái tên Đại học của nó trong Liên bang Đông Dương, đạt được cả phần “thân thể và tâm hồn”.

Vào thời đó, không ít sinh viên gặp khó khăn về kinh tế, vừa làm thêm vừa đăng ký học luật, nên cũng ảnh hưởng không ít đến việc học. Tuy nhiên trong bối cảnh kinh tế khó khăn, phải đi làm thêm là điều cần thiết để có thể theo chí nguyện học hành. Như trường hợp sinh viên Vũ Đình Hòe, sau này là Chủ nhiệm báo Thanh Nghị, Bộ trưởng Bộ Giáo dục (sau Cách mạng Tháng 8), rồi Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Ông viết trong hồi ký của mình:

“Nhiều môn học đã có giáo sư của trường Đại học Paris gửi sang dạy.9 Nhất thiết phải theo lớp, đọc sách giáo khoa không đủ. Nhưng nếu tiếp tục làm giáo viên ở trường Hoa kiều, thì phải bỏ nhiều giờ nghe giảng. Rất thiệt nên tôi phải tính cách khác kiếm sống. Phan Anh mách tôi đến gõ cửa anh Hoàng Minh Giám (sinh viên Vũ Đình Hòe lúc đó đi xin dạy thêm tại trường tư Thăng Long và được nhận) (…) Lợi thì thế (đi dạy học có thêm thu nhập), nhưng có cái hại đi kèm. Là tôi không tập trung được thì giờ và tâm trí vào việc học luật. Không đi được thư viện, không dự thính được nhiều phiên tòa, không nghiên cứu thêm được để tham gia thi môn ngoại khóa. Tôi vẫn cứ chỉ học theo kiểu ba-sốt-ta (bachotage)10 như xưa. Đấy chỗ yếu của tôi là như vậy! Thua xa các bạn đồng môn11 Phan Anh, Trịnh Khánh Phong, Vũ Văn Hiền, Tạ Như Khuê, Vũ Văn Mẫu, Vũ Quốc Thúc, vv… Tôi đỗ cử nhân luật loại bình thường. Dở quá ! Tuy nhiên, nay nghĩ lại, tôi cảm thấy mình đã sống đầy đủ đời sinh viên. Biết bao kỷ niệm vui vẻ trẻ trung, hình ảnh đẹp, cảm xúc mặn mà còn ghi đậm trong trí trong lòng”.12

Cần lưu ý rằng hai ông không ủng hộ việc bỏ học trên giảng đường, “Rất thiệt”, đó chỉ là hoàn cảnh đôi khi bắt buộc không thể lên lớp đầy đủ. Ngược lại, khi nghỉ học thì họ phải cố gắng rất nhiều để bổ khuyết. Một lưu ý nữa đó là cũng tùy đặc thù của từng ngành học, có những môn học nếu không trực tiếp nghe giáo sư giảng sẽ vô cùng khó khăn để tự học, nếu không muốn nói là không thể, ví dụ như “ở trường Y khoa, nơi đó sự hiện diện hằng ngày là một bổn phận”.

Do lớp cử nhân khai giảng vào tháng 2/1933, cho nên tháng 10 năm 1935 mới có khóa đầu tiên tốt nghiệp sau 3 năm học. Kỳ kiểm tra tháng 10/1935 này có 7 người đỗ và kỳ thi lại được tổ chức vào tháng 2/1936 có 8 người đỗ.13

Năm 1939, đến Hà Nội trên cương vị là đại biểu của Khoa luật Paris cử đến, giáo sư René Cassin, người sau này là một trong số đồng tác giả của Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948, đã soạn một báo cáo gần 80 trang về Trường Luật ký ngày 03/6/1939.14 Trong đó, ông cho biết đã đọc những bài luận của sinh viên, thậm chí còn tham gia hỏi thi vấn đáp trong nhiều môn của sinh viên các khóa. Ông nhận thấy rằng yêu cầu đặt ra trong các bài thi cho sinh viên tại Trường Luật Hà Nội ít nhất cũng là ngang bằng với yêu cầu cho sinh viên luật khoa bên Pháp. Năm 1939, những bài viết được tuyển chọn rất nghiêm túc, nhất là đối với năm thứ nhất. Dù mỗi chủ đề được lựa chọn đòi hỏi đồng thời cả kiến thức lịch sử và tư pháp cùng khả năng diễn đạt nhưng không có bài luận bị bỏ trống và rất hiếm những bài đạt điểm tệ. Giáo sư Cassin cũng cảm thấy rõ ràng rằng trường đã vượt qua khó khăn để thành một cơ sở giáo dục xứng đáng với cái tên Đại học của nó trong Liên bang Đông Dương, đạt được cả phần “thân thể và tâm hồn“. Ông cũng đề cập đến những kế hoạch cần thiết, trong đó có việc tiến tới tổ chức đào tạo nghiên cứu sinh ngành luật tại trường.

Trong báo cáo của giáo sư Cassin có kèm theo danh sách các cử nhân luật đã tốt nghiệp từ khóa đầu tiên đến khóa 4. Trong danh sách đó có tên các vị rất đáng chú ý là: Vũ Văn Hiền, Vũ Đình Hòe, Tạ Như Khuê, Phan Anh (Phan Văn Anh), Vũ Văn Mẫu, Bửu Lộc, Võ Nguyên Giáp, Vũ Trọng Khánh, Phạm Huy Thông, Vũ Tuân Sán… Tuy nhiên, cử nhân luật không có nghĩa là đã được phép làm luật sư. Muốn trở thành luật sư thì phải trải qua một kỳ tập sự tại văn phòng luật sư và đáp ứng những quy định cụ thể khác, và đương nhiên phải có tổ chức công nhận. Qua những điều đã đề cập ở trên cùng tâm sự sau đây cho chúng ta thấy vào thời trước Cách mạng Tháng tám, học xong đại học luật đã rất khó khăn, tiếp tục để thành luật sư lại càng khó khăn hơn. Theo ông Vũ Đình Hòe, “Có một nghề tự do ‘oai lắm’ và làm giàu được, làm giàu hợp pháp, nghề ‘thầy cãi’. Nhưng tôi không dám nghĩ đến, vì không đủ thế và lực để chen chân vào. Lực vật chất và tinh thần. Lực vật chất là phải có vốn ứng trước, ít nhất để sống trong năm năm tập sự. Lực tinh thần là phải có bằng tiến sĩ luật -tuy không bắt buộc thế- thì mới cạnh tranh được với thiên hạ, mà muốn có tấm bằng tiến sĩ, thì phải ‘sang Tây’ học và thi !”. 15


Kỳ 2:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT ĐÔNG DƯƠNG: Cất cánh trong thời kỳ 1939-1945


Những bước tiến về tổ chức và lực lượng giảng viên

Trước khi trường Luật Đông Dương ra đời, tiền thân của nó, Trường Cao học Đông Dương cũng tổ chức các khóa luật trong vòng một năm nhằm cấp “Chứng chỉ nghiên cứu pháp luật Đông Dương” (Certificat d’études juridiques indochinois) cho những người đã đi làm trong chính quyền.

Về sau, trường Luật Đông Dương cũng có một khóa tương tự, nhưng nội dung được nâng cấp hơn17, gọi là “Trường hành chính Đông Dương (École d›Administration indochinoise).18 Khóa học này gọi là “năm thứ tư”, dành cho những ai đã kết thúc ba năm học cử nhân luật. Để tham gia một số lĩnh vực của hệ thống hành chính, khóa học này là bắt buộc. Chương trình dạy học của chứng chỉ này gồm những môn sau:19

Luật dân sự Đông Dương và lịch sử các thể chế tư pháp và phong tục Đông Dương (cả năm học);

– Luật công và hành chính Đông Dương (cả năm học);

– Các nguyên tắc kinh tế chính trị áp dụng vào Đông Dương và viễn đông (nửa năm học-học kỳ);

  – Tổ chức xét xử và thủ tục tố tụng dân sự có thể áp dụng vào Đông Dương (học kỳ);

– Luật hình sự và thủ tục tố tụng hình sự có thể áp dụng vào Đông Dương (học kỳ);

– Lịch sử nước Annam (Việt Nam) từ thế kỷ XVI đến thời điểm khi đó (năm học);

– Tài chính Đông Dương (học kỳ); vấn đề xã hội Đông Dương (học kỳ);

– Đào tạo chuyên viên và hành chính (học kỳ).

Theo luật sư Vũ Quốc Thúc, nhờ chương trình này mà người học có thể am hiểu tình hình kinh tế và chính trị trong xứ Đông Dương thay vì chỉ có một kiến thức tổng quát về luật học.20

Các giáo sư trường Luật Đông Dương từ Pháp sang công tác ở đây cũng thường tự hào là họ có nhiệm vụ bảo vệ những truyền thống cao đẹp của đại học. Họ cố gắng giữ thái độ độc lập, không muốn dính líu tới chính sách của nhà cầm quyền thuộc địa.

Để thực hiện được chương trình đào tạo này, các giáo sư trường Luật Đông Dương thời kỳ này đã cộng tác cùng các cộng sự để nghiên những vấn đề như luật, kinh tế các nước Đông Dương từ đó có tài liệu giảng dạy và học tập cho sinh viên. Theo sắc lệnh ngày 27/4/1940, Viện Cao học Tư pháp và Xã hội Viễn đông (Institut des Hautes Études Juridiques et Sociales d’Extrême-Orient)21 được thành lập trực thuộc Đại học Luật Đông Dương và có sự bảo trợ của Khoa Luật Paris. Viện này có mục tiêu sau:

– Tăng cường cộng tác trong giảng dạy;

– Phát triển sự hiểu biết của các tổ chức về cả lý thuyết và ứng dụng;

– Hình thành một trung tâm làm việc và nghiên cứu  khoa học về luật, trung tâm tài liệu khoa học và trung tâm hợp tác quốc tế.

Về đội ngũ giảng viên. Theo giáo sư René Maunier, đại biểu của Khoa Luật Paris được cử đến trường Luật Đông Dương, thì lực lượng giảng viên trong khoảng 5 năm 1935-1940 đã có đổi mới và phong phú hơn. Vào năm 1940, cả về phương diện chất lượng và số lượng, lực lượng giảng viên tại đây đã ngang bằng với khoa luật của các vùng của Pháp. Trường đã có tám giáo sư thực thụ, trong số đó có sáu người đã có bằng chuyên gia cao cấp (hay Bằng chuyên môn cao cấp) (agrégé, agrégation22).23

Danh sách  Giảng viên tại Trường Luật năm 1940-Personnel enseignant de l’École supérieure de Droit en 1940 (Source: ANP, AJ/16/8339, Rapport sur la session d’examens de l’École supérieure de Droit (mai 1940)

Họ tên

Vị trí, học hàm học vị

Môn phụ trách

1. Camerlynk

Hiệu trưởng, giáo sư thực thụ hạng 4 các khoa luật (Directeur, Professeur titulaire de 4e classe des facultés de Droit)

Droit civil (1er année), Droit pénal (2e année)

2. Kherian

Chuyên gia cao cấp, Giáo sư (Agrégé des Facultés de Droit, Professeur titulaire de l’École)

Économie politique (1er, 2e et 4e années)

3. Guillien

Chuyên gia cao cấp, Giáo sư (Agrégé des Facultés de Droit, Professeur titulaire de l’École

Droit constitutionnel (1er année), Droit administratif (2e et 4e années)

4. Dennery

Chuyên gia cao cấp, Giáo sư (Agrégé des Facultés de Droit, Professeur titulaire de l’École)

Droit civil, procédure, Droit international, privé (3e année)

5. Comby

Chuyên gia cao cấp, Giáo sư (Agrégé des Facultés de Droit, Professeur titulaire de l’École)

Législation coloniale (3e année)

6. Pinto

Chuyên gia cao cấp, Giáo sư (Agrégé des Facultés de Droit, Professeur titulaire de l’École)

Législation coloniale (3e année)

7. Andt

Giáo sư (Professeur titulaire de l’École)

Droit romain (1er et 2e années), Histoire du Droit (1er année)

8. Chabas

Giáo sư (Professeur titulaire de l’École)

Droit civil (1er année), Droit commercial (3e année), Doit pénal (4e année)

9. Olivier

Giảng viên thỉnh giảng (Conseiller à la Cour d’Appel de Hanoi, chargé d’enseignement)

Droit civil annamite (4e année)

10. Nadailiat

Giảng viên thỉnh giảng (Conseiller à la Cour d’Appel de Hanoi, chargé d’enseignement)

Procédure (4e année)

11. Doudet

Giảng viên thỉnh giảng (Directeur des Archives et Bibliothèques de l’Indochine-Chargé de cours)

(Cours d’études juridiques indochinois)

12. Domec

Giảng viên thỉnh giảng (Directeur du Personnel au Gouvernement général Chargé de cours)

Formation professionnelle et rédaction administrative (Cours d’études juridiques indochinoise)

13. Guiriec

Giảng viên thỉnh giảng (Directeur des Bureaux à la Résidence Supérieure au Tonkin Chargé de cours)

Questions sociales indochinoises (Cours d’études juridiques indochinoise)

14. Guiriec Nadailiat

Giảng viên thỉnh giảng (Procureur de la République- Chargé de Cours)

Organisation judiciaire et Procédure civile applicable aux Indochinois (Cours d’études juridique indochinoise)

Trong thời kỳ chiến tranh, một số giáo sư, giảng viên được huy động tham gia nghĩa vụ. Lực lượng giảng viên của trường bị tổn thất. Giáo sư Dennesy đã hy sinh vì nước Pháp vào ngày 23/9/1940 tại chiến trường Lạng Sơn24 (sự kiện Nhật vào Đông Dương và tiến qua Lạng Sơn), giáo sư Edouard Andt mất ngày 05/11/1941.25 Lực lượng giáo sư, giảng viên còn lại đã phải cáng đáng một số lượng công việc lớn vì số sinh viên tăng lên đáng kể, ngoài ra còn có thêm một số chứng chỉ được mở ra.26

Nghiên cứu các báo cáo của chính quyền và của các giáo sư của Khoa Luật Paris được cử sang chủ trì các kỳ thi tại Hà Nội cho thấy họ có tinh thần khách quan, độc lập, nghiêm túc trong đánh giá. Họ luôn làm đúng trách nhiệm để đảm bảo chất lượng, đồng thời có những đề xuất để phát triển trường Luật Đông Dương với tư cách là một bộ phận của Khoa Luật Paris. Ví dụ, một hành động rất thiết thực và ý nghĩa đó là vào năm học 1934-1935, nhờ sự can thiệp của giáo sư Gidel, 300 luận án của Khoa Luật Paris được bổ sung cho trường Luật Hà Nội, đó là những tài liệu quý giá cho giáo sư và sinh viên ở Hà Nội.27 Đây là điều rất được trân trọng. Các giáo sư trường Luật Đông Dương từ Pháp sang công tác ở đây cũng thường tự hào là họ có nhiệm vụ bảo vệ những truyền thống cao đẹp của đại học. Họ cố gắng giữ thái độ độc lập, không muốn dính líu tới chính sách của nhà cầm quyền thuộc địa. Sau khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu, để khỏi gây mâu thuẫn với phủ toàn quyền theo chế độ Pétain, Vichy, các giáo sư phải tìm hình thức cộng tác không thương tổn tới quy chế độc lập của họ.28

Đào tạo nghiên cứu sinh luật khoa

Từ đầu năm 1937, trong một báo cáo của mình về trường Luật Đông Dương, giáo sư Gabriel Le Bras đã nêu quan điểm ủng hộ mạnh mẽ việc thành lập tại trường Luật Hà Nội một ban đào tạo nghiên cứu sinh. Theo ông, có những lý do sau:29

Thứ nhất: để đáp ứng đề nghị của sinh viên (các sinh viên khoa luật thường gửi đến các giáo sư từ Paris sang những lời đề nghị, trong đó có đề nghị việc mở khóa đào tạo nghiên cứu sinh luật tại Hà Nội).

  • Thứ hai: là một cơ sở giáo dục đại học thực sự và trọn vẹn phải đạt đến mức đào tạo nghiên cứu sinh tốt nghiệp với một luận án tiến sĩ.
  • Thứ ba: đây là cơ hội tốt để cho các giáo sư và sinh viên tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, nhất là về những vấn đề tại Đông Dương.

  • Cuối cùng: Trường sẽ thu hút hơn sự chú ý của những người nước ngoài và sinh viên những nước lân cận có thể quan tâm về vấn đề đào tạo nghiên cứu sinh. (Đây là vấn đề mở rộng, gây ảnh hưởng văn hóa Pháp ra bên ngoài).

Giáo sư Le Bras đã dự kiến một chương trình hoàn chỉnh cho việc đào tạo nghiên cứu sinh luật tại Hà Nội, cụ thể là sau khi có bằng cử nhân, cần phải học tiếp và lấy các chứng chỉ sau: tư pháp, công pháp, kinh tế chính trị, lịch sử khoa học và cuối cùng là bảo vệ một luận án tiến sĩ. Năm 1937, hai học giả về luật và kinh tế có tiếng ở Pháp bấy giờ là Gaëtan Pirou và Jean Escarra đã đưa ra một phương án đơn giản và thực tế hơn. Nghiên cứu sinh thay vì phải học bốn chứng chỉ thì chỉ cần hoàn thành hai chứng chỉ trước khi bảo vệ luận án: Một chứng chỉ về tư pháp theo mô hình bên Pháp, và một chứng chỉ nghiên cứu chuyên sâu về Đông Dương. Tên của hai chứng chỉ này là: Nghiên cứu về tư pháp và Nghiên cứu về kinh tế chính trị (“Études supérieures de Droit privé” và “Études supérieures d›Economie politique”). Số lượng sinh viên đăng ký học hai chứng chỉ này đã tăng từ 39 vào năm học 1942-1943 lên 47 vào năm 1943-1944. Cuối cùng, khi làm luận án, học viên sẽ được định hướng nghiên cứu chủ yếu những vấn đề về luật và kinh tế Đông Dương và vùng Viễn Đông.30


Gabriel Le Bras (1891 – 1970), một nhà nghiên cứu luật pháp và một thẩm phán có tiếng ở Pháp, người ủng hộ mạnh mẽ việc Đại học Luật Đông Dương cần mở chương trình đào tạo nghiên cứu sinh.

“Tôi ghi danh học chứng chỉ Cao học Tư pháp (Diplôme d’Études supérieures de Droit privé) từ tháng 10 năm 1942, nhưng chỉ có thể đến tham khảo ở Thư viện Đại học hằng ngày cho tới tháng giêng 1943, vì từ lúc đó trở đi tôi phải làm việc ở Phủ Toàn quyền. Học cao học tư pháp luôn luôn phải tra cứu các bộ tạp chí pháp luật Dalloz và Sirey: vì bận đi làm, tôi chỉ có thể tới thư viện chiều thứ bảy và sáng chủ nhật, do đó việc nghiên cứu rất khó khăn, thay vì đậu ngay khóa tháng 5/1943, tôi phải đợi khóa tháng chín năm đó mới đậu nổi và đậu một cách chật vật. Tháng 10 cùng năm tôi ghi danh học chứng chỉ Cao học Kinh tế chính trị, Diplôme d’Études supérieures d’Economie politique. Học chứng chỉ này tôi có thể mượn sách của thư viện để về nhà đọc. Mỗi lần có thể mượn hàng chục cuốn sách(…). Khi đọc sách kinh tế chính trị, tôi thấy hấp dẫn đặc biệt. Tôi còn nhớ có hai cuốn sách đã biến tôi thành một tín đồ nhiệt thành của môn kinh tế học. Cuốn thứ nhất nói về tiền tệ của tác giả Hartley Withers nhan đề What is Money? dịch ra Pháp văn là Qu’est ce que le monnaie (Tiền tệ là gì). Tôi bắt đầu đọc vào buổi tối và say mê đến nỗi thức trắng đêm để đọc cho hết cuốn sách. Cuốn sách của Withers đã thúc đẩy tôi khảo cứu thêm về vấn đề tiền tệ, tín dụng và đặc biệt là các phương pháp mà nhà nước có thể áp dụng để chỉ huy kinh tế qua tiền tệ và tín dụng. Lúc làm luận văn để thi tôi đã chọn đề tài tiền tệ. Giáo sư Khérian phụ trách ban cao học kinh tế rất hãnh diện về cái luận văn của tôi nên yêu cầu tôi đưa thêm cho ông một bản để ông gửi cho ông Gannay, lúc đó làm Tổng Giám đốc Đông Dương Ngân hàng Hà Nội (…). Lúc bấy giờ chủ tâm của ông Khérian chỉ là để khoe với ông Gannay là ban Cao học Kinh tế của trường Luật Hà Nội không phải chỉ hữu danh vô thực, lạm dụng danh hiệu để lập lờ đánh lận con đen. Trái lại, nó có thể đào luyện những chuyên viên có trình độ tương đương với các sinh viên Tiến sĩ ở Pháp”. 31

Theo một tổng kết ngắn32, tính đến năm 1944, Đại học Luật Đông Dương mỗi năm cấp khoảng 30 bằng cử nhân luật và tính đến ngày 9/3/1945, Trường đã đào tạo được khoảng 260 cử nhân luật, trong đó có 220 người Việt Nam. Đó là chưa kể số người được đào tạo thành công để nhận các chứng chỉ các khác. Trong số những người nước ngoài học tại đây có cả người Pháp đang sinh sống tại Đông Dương. Điều này cho thấy định kiến trường chỉ là nơi dành cho người bản xứ đã phần nào bị xóa bỏ. Sinh viên theo học trường ngày càng tăng trong những năm 1940 và Đại học Luật Đông Dương vươn lên chiếm vị trí hàng đầu trong tổng số sinh viên của Đại học Đông Dương khi đó.


Sinh viên và giảng viên trường Luật Đông Dương trong khoảng năm 1939-1941

Tuy nhiên, sự kiện Nhật- Pháp bắn nhau vào ngày 9/3/1945 đã khiến Đại học Luật Đông Dương phải đóng cửa. Vì vậy, theo ông Vũ Quốc Thúc, một trong những nghiên cứu sinh đầu tiên của trường Luật Đông Dương, thì chưa có sinh viên nào kịp bảo vệ luận án tại đây. 33 Bản thân ông cũng đang chuẩn bị trình luận án, nhưng cũng không kịp và sau này đã sang Pháp bảo vệ thành công luận án vào tháng 5/1950 và được đánh giá cao.34

Trường Đại học Luật Đông Dương và việc phổ biến tư tưởng tiến bộ của nhân loại

Từ 1937, giáo sư Pirou đã nêu quan điểm rằng trường luật không nên chỉ dừng lại ở vai trò giáo dục. Nó còn phải thực hiện nhiệm vụ về khoa học, đó là làm cho mọi người vùng Viễn Đông biết về văn hóa lập pháp và nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề về pháp luật và kinh tế tại Đông Dương.35

Trong những năm tồn tại, trường Luật Đông Dương đã góp phần hiệu quả vào việc lan tỏa tư tưởng pháp quyền của phương Tây. Ông Vũ Quốc Thúc đã viết trong hồi kí của mình: “Ngay trong buổi khai giảng đầu tiên, giáo sư Camerlynck, khoa trưởng trường Luật khoa Đại học, đã bàn về tinh thần pháp luật. Ông ta đã nói một cách vô cùng hấp dẫn, nghe tới đâu tôi hiểu tới đó và cảm thấy hoàn toàn đồng ý. […]”36 “Trong giáo trình của các đại học Luật khoa theo kiểu mẫu Pháp có ba bộ môn, đối với tôi là cả một sự khám phá, vì nhờ các bộ môn này tôi đã nhìn thấy một chân trời mới giống như một kẻ vừa ra khỏi hang tối được thấy ánh sáng Mặt trời. Trước hết là bộ môn tư pháp gồm những bộ môn như dân luật, hình luật, luật thương mại, tố tụng, tổ chức tư pháp, luật La Mã vv… Từ lâu tôi vẫn tưởng rằng những kẻ học luật phải thuộc lòng các điều khoản phức tạp khô khan ghi trong các bộ luật. Tôi nghĩ rằng nếu phải dùng trí nhớ như vậy, kẻ học luật chẳng khác chi một con vẹt thông thái. Sau khi nghe các giáo sư giảng bài tôi mới nhận thấy điều cần phải lĩnh hội và nếu hưởng ứng, ghi sâu trong tâm khảm, chính là tinh thần pháp trị, là những nguyên tắc trác việt đã khiến cho người ta phải chấp nhận các điều khoản được ghi trong các bộ luật. Những điều khoản này dĩ nhiên phức tạp vì phải áp dụng cho nhiều trường hợp cụ thể, nhưng bao giờ cũng suy diễn từ một số nguyên lý căn bản. Một khi đã lĩnh hội được nội lý ấy, kẻ học luật không cần phải thuộc lòng mọi điều luật, đó là một sự cố gắng vô ích. Vì mỗi khi cần, người ta có thể tra cứu các bộ luật in sẵn.[…] Bộ môn thứ hai giúp tôi “giác ngộ”, chính là môn Chính trị học. Ta thừa hiểu là nếu chính quyền Pháp bằng lòng cho thiết lập một trường Đại học Luật khoa ở Hà Nội để trấn an dư luận sau các biến cố năm 1930, họ vẫn ngần ngại chưa dám cho thiết lập một trường Đại học Chính trị giống như Institut d’E’tudes Politiques ở Paris. Mặc dù vậy nhờ ở một số môn nằm trong giáo trình các trường Đại học Luật Khoa, sinh viên có thể gián tiếp tiếp cận bộ môn chính trị học. Đó là các môn: Luật hiến pháp, Pháp chế sử, Quốc tế công pháp, Luật hành chính, Luật tài chánh. Theo đúng tinh thần, phải vượt qua bề ngoài các định chế, nhìn xuyên qua lời lẽ các luật lệ để tìm hiểu những nguyên lý trác việt, các giáo sư trường Luật đã luôn luôn dựa trên chính trị học để giảng bài cho sinh viên. Chính vì vậy mà họ đã đem lại cho sinh viên bản xứ cơ hội để nhận thức sự mâu thuẫn trầm trọng giữa những gì được đề cao ở trường Luật Hà Nội và thực tế thuộc địa vô cùng tàn nhẫn, bỉ ổi. […]”

 
Kết quả đậu cử nhân của của khóa năm 1938, trong đó có tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Bộ môn thứ ba đã kích thích óc hiếu kỳ của tôi là kinh tế học. Hồi đó, tức là năm 1939, môn kinh tế học chưa được giới đại học Pháp coi là một khoa học trưởng thành nghĩa là có những quy luật chính xác ai nấy đều tín cẩn. Môn này còn được gọi là kinh tế chính trị học, Économie politique, nói khác nó là một phần của chính trị học chuyên dạy về những học thuyết kinh tế để giúp cho những kẻ làm chính trị.(…). Môn kinh tế học chỉ được dành một chỗ đứng rất khiêm tốn trong giáo trình của Luật khoa Đại học.( …). Mặc dù vậy, tôi đã rất chú ý tới môn này vì thấy người ta đã giải thích một cách khoa học những sự kiện thông thường trong cuộc sống hằng ngày, như hiện tượng vật giá lên xuống, hiện tượng tiền tệ lưu thông, vv… Mặt khác, qua lịch sử các học thuyết kinh tế, tôi đã có một ý niệm mặc dù mơ hồ về một vài chủ thuyết lúc đó bị nhà cầm quyền thuộc địa nghiêm cấm như chủ thuyết Mác, Ăng Ghen, chủ thuyết Quốc gia kinh tế.” 37

***

Sau khi có chiến tranh nổ ra vào cuối năm 1946, Pháp chiếm đóng lại Hà Nội, trường Luật vẫn duy trì hoạt động tuyển sinh, đào tạo cho đến năm 1954 khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản Hà Nội trong hòa bình. Điều này cho thấy việc mở trường luật, ngay từ lúc đầu, là việc làm nghiêm túc của người Pháp khi đó.

Những người có bằng cử nhân luật tại trường Luật Đông Dương được công nhận giá trị như bằng cử nhân luật bên Pháp. Liệu có gì mâu thuẫn không khi mà một nước đến nước khác xâm lược rồi đô hộ và cai trị lại đi mở trường để dạy cho dân thuộc địa về luật như bên nước họ? Thực ra đó là xuất phát từ tư tưởng coi trọng và thực thi quản lý xã hội bằng pháp luật.

Mặc dù, Việt Nam vẫn là một nước bị đô hộ và người dân vẫn phải chịu bất công trong nhiều lĩnh vực. Và, những cuộc khởi nghĩa đòi độc lập dân tộc đều bị đàn áp thẳng tay vào thời kì đó. Tuy nhiên, trong đời sống thường ngày, từng bước đã có các văn bản pháp luật, các quy định và hướng dẫn thực hiện được ban ra để các cá nhân và các tổ chức tuân thủ trong hầu hết các lĩnh vực như tổ chức hành chính, giáo dục, y tế, kinh tế (mở công ty tư, kinh doanh, trường tư), báo chí, thuế, môi trường, vệ sinh, xây dựng, tranh chấp dân sự, gia đình, hôn nhân vv…. Thời đó cũng đã có luật sư tranh tụng trước tòa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân và tổ chức theo luật.

Khi trường Luật ra đời cũng có ý đào tạo các tri huyện có trình độ cử nhân luật, am hiểu pháp luật (sau còn phải học thêm một vài chứng chỉ khác liên quan đến phong tục tập quán mới có thể được thi, tập sự rồi mới được bổ nhiệm làm quan tri huyện). Công bằng để đánh giá thì đó chính là việc nâng cao quản lý xã hội bằng pháp luật. Các ông tri huyện cử nhân luật Tây học sẽ thay dần cho các ông tri huyện theo chế độ quan lại cũ. Phân tích như vậy để thấy thêm được vai trò của trường. Ngoài ra, trường còn giúp cho một bộ phận, dù rất nhỏ, trong giới thanh niên nước ta khi đó được học hỏi, tiếp cận một cách có hệ thống với văn minh pháp quyền phương Tây, văn minh lập pháp. Mà văn minh đó thời nào cũng rất cần thiết để xây dựng xã hội. Bên cạnh đó, các sinh viên luật cũng được học những lĩnh vực khoa học mới mẻ nhưng rất hữu ích như kinh tế chính trị học. Thực tế là một bộ phận các cử nhân luật từ đây ra đã góp phần tích cực, hiệu quả vào việc soạn thảo, góp ý xây dựng hiến pháp tiến bộ năm 1946, hoặc vào cải cách tư pháp của nước ta, bên cạnh đó là vào nhiều lĩnh vực quan trọng trong xây dựng xã hội sau Cách mạng tháng Tám năm 1945.


Chú thích:

1 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.156-157.

2 Gouvernement général de l’Indochine, Rapportsau Conseil de gouvernement, (tome 2), 1928, p.396.

3  Xem thêm về nhân vật Từ Bộ Hứa trong quyển “Văn Thi sĩ tiền chiến” của Nguyễn Vỹ. Ông mất sớm khi còn là sinh viên do bị bệnh lao phổi (thời đó là một loại nan y).

4ANP, AJ/16/8339, Rapport sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi (1932-1933).

5 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Jean ESCARRA sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi, le 2 janvier 1934.

6 Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au grand Conseil des intérêts économiques et financières et au Conseil de gouvernement, session ordinaire de 1933, Hanoi, Impr Extrême-Orient, 1933, p.106.

7 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Le Bras (1936)

8 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.152-153.

9 Cụ Vũ Đình Hòe đăng ký học cử nhân luật khoá đầu 1932, vì khóa khai giảng muộn như đã nói, năm 1933 mới bắt đầu và có giáo sư Pháp sang.

10 Tiếng pháp là học vội để thi.

11 Ở đây là những người cùng học Đại học Luật Đông Dương với tác giả, có thể cùng hoặc khác khóa.

12 Vũ Đình Hòe, Thuở lập thân, Nxb Trẻ, 2012, tr.160-161 (để biết thêm đời sinh viên sôi nổi của tác giả Vũ Đình Hòe, xin đọc trong sách này).

13 Chúng tôi sẽ có bài về những cử nhân luật đầu tiên tại Đại học Luật Đông Dương trong một bài  sắp tới đây.

14 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur René Cassin sur le fonctionnement de l’École supérieur de Droit, le 3 juin 1939.

15 Vũ Đình Hoè, Thuở lập thân, Nxb Trẻ, 2012, tr.172.

16ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur Jean ESCARRA sur le Fronctionnement de l’École supérieure de Droit de Hanoi, le 2 janvier 1934.

17 Le Rectorat d’Académi, Les œuvres culturelles en Indochine, op.cit, p.62.

18 AGEFOM//243, Faculté de Droit.

19 F.R. Giraud et Bui Ngo Hien, Université de Hanoi. Livret de l’étudiant indochinois, 1942-1943, publié par la Direction de l’Instruction Publicque, Hanoi, p.22-23.

20 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.159.

21 F.R. Giraud et Bui Ngo Hien, Université de Hanoi. Livret de l’étudiant indochinois, 1942-1943, publié par la Direction de l’Instruction Publicque, Hanoi, p.26.

22 Từ “agrégé” dịch sang tiếng Việt có khi dùng là thạc sĩ, nhưng như thế có thể bị hiểu lầm là bằng thạc sĩ cao học như hiện nay, tức cao hơn cử nhân một bậc. Thực tế bên Pháp để đạt bằng Agrégé khó và phức tạp hơn, thường thì thí sinh phải có bằng tiến sĩ và có kinh nghiệm rồi mới thi và đậu được. Đây cũng là điểm đặc biệt trong giáo dục của Pháp. Chúng tôi dịch là Bằng chuyên gia cao cấp, hoặc Bằng chuyên môn cao cấp (người có bằng này thì gọi là chuyên gia cao cấp).

23 ANP, AJ/16/8339, Rapport sur la session d’examens de l’École supérieure de Droit (mai 1940).

24 (Báo) Le Figaro, Le Carnet du Firago, no 326, le 22 novembre 1940.

25 Ông thọ 54 tuổi, nguồn : Association générale des étudiants de l’Université indochinoise, Le Monôme. Organe de l’Association générale des étudiantsde l’Université indochinoise. N°29, 1941-11, p.12.

26 ANP, AJ/16/8339, Rapport sur le fonctionnement de la Faculté de Droit de l’Indochine (Pierre Lampué, novembre 1946).

27 Gouvernement général de l’Indochine, Rapports au grand Conseil des intérêts économiques et financières et au Conseil de gouvernement, session ordinaire de 1932, Hanoi, Impr Extrême-Orient, 1935, p.101.

28 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.158.

29 ANOM, Indochine, Nouveau Fonds, Carton 259, dossier 2229.

30 ANP, AJ/16/8339, Rapport du professeur René Cassin sur le fonctionnement de l’École supérieur de Droit, le 3 juin 1939.

31 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.194-196.

  32 Le Rectorat d’Académi, Les œuvres culturelles en Indochine, op.cit, p.63.33 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.159.

  34 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.279.

35 ANP , AJ/16/8339,  Rapport sur l’École supérieure de Droit de Hanoi 1937 (de Mr Pirou).

36 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.147.

37 Vũ Quốc Thúc, Thời đại của tôi, cuốn II, Đời tôi trải qua các thời biên, Nxb Người Việt, 2010, tr.153-156.


SOURCE: Tạp chí Tia sáng điện tử (tiasang.com.vn)

Trích dẫn từ:

Kỳ 1: https://tiasang.com.vn/-van-hoa/Truong-Dai-hoc-Luat-Dong-Duong-15-nam-toa-sang-ngan-ngui-26968

Kỳ 2: https://tiasang.com.vn/-giao-duc/Truong-Dai-hoc-Luat-Dong-Duong-Cat-canh-trong-thoi-ky-19391945-27046

(Để thuận lợi trong tra cứu, Civillawinfor có sắp xếp lại thứ tự về chú thích giữa hai kỳ)

One Response

  1. […] Trường Luật Đông Dương là mô hình đào tạo cử nhân đầu tiên của giáo dục thời Pháp thuộc. Quá trình đi tìm những cái tên tốt nghiệp khóa đầu của trường sẽ hé lộ cho ta thấy mối quan tâm của Pháp tới đào tạo con người ở thuộc địa, sự đón nhận của người Việt với bậc giáo dục mới và quan trọng hơn là vai trò của nó trong việc tạo ra những con người góp phần xây dựng chính phủ mới sau này. […]

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d