NGUYỄN HỒNG HẢI – Vụ Pháp luật dân sự – kinh tế, Bộ Tư pháp
Hợp đồng vô hiệu dưới góc độ khái niệm
Xét về chính sách pháp lý và phương pháp tiếp cận, quy định về hợp đồng vô hiệu trong BLDS năm 2015 chịu ảnh hưởng bởi các triết lý pháp lý chung, cơ bản trong xây dựng BLDS đó là: bảo đảm BLDS là luật của tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự; luật của các quan hệ thị trường và phù hợp với tập quán, thông lệ quốc tế; bảo đảm được 2 giá trị căn bản nhất của xã hội kinh tế thị trường là chủ thể bình đẳng, tự do – tự nguyện trong quan hệ tư; nhà nước, cơ quan nhà nước khi tham gia quan hệ tư bình đẳng với các chủ thể khác; hạn chế tối đa sự can thiệp của Nhà nước vào các quan hệ tư.[1]Xét về kết cấu, do bản chất pháp lý của hợp đồng chính là hành vi pháp lý dân sự hay còn gọi là sự tuyên bố ý chí (BLDS Việt Nam gọi là giao dịch dân sự) và do cấu trúc của BLDS[2] cho nên bên cạnh quy định liên quan tại Phần thứ 2 “ Nghĩa vụ và hợp đồng” thì quy định chung về hiệu lực của giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu (Điều 116 – Điều 133, Phần thứ nhất “Quy định chung”) cũng là những căn cứ pháp lý cơ bản trong điều chỉnh hợp đồng, hợp đồng vô hiệu. [3]
Trong quy định về hợp đồng vô hiệu, BLDS và luật khác có liên quan của Việt Nam không có một giải nghĩa cụ thể nào về “hợp đồng vô hiệu”.[4] Tuy nhiên, qua quy định tại Điều 122 BLDS về việc giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 117 của BLDS thì vô hiệu, trừ trường hợp BLDS có quy định khác và qua các quy định về công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền dân sự (Điều 2 BLDS năm 2015), nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 3 BLDS năm 2015), nguyên tắc giới hạn thực hiện quyền (Điều 9, Điều 10 BLDS năm 2015), tự bảo vệ quyền dân sự (Điều 12 BLDS năm 2015)…, và đường lối giải quyết các trường hợp vô hiệu cụ thể thì dưới góc độ khái niệm, có thể đưa ra các nhận định sau đây:
(1) Việc xem xét vô hiệu của hợp đồng gắn liền với xác định việc xác lập hợp đồng có tuân thủ hay không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực được luật định.[5] Theo nghĩa khách quan, nó thể hiện thái độ pháp lý của nhà nước phủ nhận hiệu lực của một hợp đồng được xác lập khi không đáp ứng một hoặc các điều kiện mà theo luật định hợp đồng đó phải bảo đảm, tức là nhà làm luật xem nó như chưa bao giờ tồn tại (kể cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai). Theo nghĩa chủ quan, sự vô hiệu của hợp đồng không làm phát sinh hậu quả pháp lý về việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự theo như mong muốn của các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng. [6]
(2) Bằng việc quy định giao dịch dân sự khi không có một trong những điều kiện có hiệu lực thì vô hiệu trừ trường hợp BLDS có quy định khác, cho thấy, nhà làm luật Việt Nam đã chính thức ghi nhận việc không tuân thủ điều kiện có hiệu lực hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu hoặc không bị tuyên bố vô hiệu.[7] Điều đó cũng có nghĩa, BLDS năm 2015 đã ghi nhận một cách rõ ràng hơn về sự tồn tại của hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối, mặc dù để nhận biết một cách đầy đủ cũng vẫn cần phải thông qua các dấu hiệu pháp lý thể hiện ở các quy định giải quyết hợp đồng vô hiệu cụ thể hoặc thông qua các lý thuyết trong khoa học pháp lý dân sự;[8]
(3) Bằng việc quy định nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền dân sự tại Điều 10.2 BLDS năm 2015 về việc cá nhân, pháp nhân không tuân thủ quy định về giới hạn thực hiện quyền dân sự thì Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác căn cứ vào tính chất, hậu quả của hành vi vi phạm mà có thể không bảo vệ một phần hoặc toàn bộ quyền của họ, buộc bồi thường nếu gây thiệt hại và có thể áp dụng chế tài khác do luật quy định đã cho thấy nhà làm luật Việt Nam đã có nguyên tắc rõ ràng hơn trong xác định hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu một phần hay toàn bộ, làm cho quy định của pháp luật về vấn đề này được minh bạch hơn về chính sách;[9]
(4) Bằng việc quy định tại Điều 131.1 “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập” và quy định tại Điều 427.1 “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp” thì BLDS năm 2015 đã có sự tách biệt hơn về mặt khái niệm giữa “vô hiệu” hợp đồng và “hủy bỏ” hợp đồng.[10] Theo đó, khác với hợp đồng vô hiệu – việc xác lập hợp đồng không có hiệu lực thì ở hủy bỏ hợp đồng việc xác lập hợp đồng lại có hiệu lực và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa các bên, nhưng do một bên hoặc hai bên vi phạm hợp đồng hoặc do các bên có thỏa thuận mà dẫn tới tuyên bố chấm dứt hợp đồng. Việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng do hủy bỏ được thực hiện trong bối cảnh hợp đồng đã được công nhận về hiệu lực nên những điều khoản về trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng và cơ chế giải quyết tranh chấp đã được thỏa thuận trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực để áp dụng cho các bên khi có tranh chấp.[11]
….
TRA CỨU BÀI VIẾT ĐẦY ĐỦ TẠI ĐÂY
[1] Tờ trình số 390 /TTr-CP ngày 12/10/2014 của Chính phủ trình Quốc hội dự án BLDS (sửa đổi); Nguyễn Hồng Hải, “Một vài gợi mở nghiên cứu về sửa đổi BLDS của Việt Nam”, Kỷ yếu Hội thảo “Legal reforms in asean emerging economies – a historical perspective and challenges for the future” và Tuần giảng “Pháp luật dân sự Châu Á” tháng 10/2017 tại Đại học KoBe Nhật Bản.
[2] BLDS năm 2015 được kết cấu theo cấu trúc Pandekten – khái quát hóa lý luận. Xem thêm chú thích 1
[3] Điều 401.1 BLDS 2015: “Quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
[4] Pháp luật hợp đồng trên thế giới từ thời La Mã đến pháp luật hiện đại cũng thường không có quy phạm định nghĩa về hợp đồng vô hiệu thay vào đó thường giải nghĩa theo các dấu hiệu pháp lý hoặc qua các lý thuyết trong trong khoa học pháp luật tư (Xem thêm Nhà Pháp luật Việt – Pháp “Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, 2007).
[5] Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được đặt ra để giới hạn việc thực hiện quyền dân sự về được tự do ý chí, tự do hợp đồng để bảo đảm trật tự công, các lợi ích tư khác cần được bảo vệ và sự ổn định của các giao dịch. Điều 117 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định”.
[6] Xem thêm Ngô Huy Cương “Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung)”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr 353-355; Nhà Pháp luật Việt – Pháp “Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, 2007; Corinne Renaultbrahinsky “Đại cương pháp luật hợp đồng”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, NXB Văn hóa – Thông tin, 2002. Nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh cũng đã từng giải nghĩa: “Vô hiệu là không thể phát sinh một hiệu lực nào. Nếu trong sự kết lập mà các điều kiện hình thức cũng như về nội dung không được tôn trọng, khế ước đó phải được coi như không được kết lập và vì vậy không thể phát sinh một hiệu lực nào cả” (Danh từ Pháp luật lược giải. NXB Khai trí, 1965, Tr 750).
[7] BLDS năm 2005 quy định: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu” (Điều 127).
[8] Theo PGS.TS Ngô Huy Cương: Vô hiệu tuyệt đối có các dấu hiệu (i) Chế tài vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi công; (ii) Sự vô hiệu có thể được nại ra ở bất kỳ người nào có một quyền lợi thực tế và hiện tại trong việc nại ra đó; (iii) Tòa án có thể nại ra sự vô hiệu; (iv) Không thể xác nhận lại được; và (v) Phải được quy định rõ ràng bởi luật. Vô hiệu tương đối có các dấu hiệu: (i) Chế tài vô hiệu nhằm bảo vệ quyền lợi tư; (ii)Sự vô hiệu chỉ có thể được nại ra bởi các đương sự với điều kiện đã hoặc có thể gánh chịu thiệt hại và đã hành động thiên chí; (iii) Tòa án không thể nại ra sự vô hiệu; và (iv) Có thể xác nhận lại được (Xem “Giáo trình Luật Hợp đồng (Phần chung)”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013, tr 353-355). Xem thêm Bùi Đăng Hiếu, “Giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và vô hiệu tuyệt đối”, Tạp chí Luật số 5/2001; Nhà Pháp luật Việt – Pháp “Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, 2007; Corinne Renaultbrahinsky “Đại cương pháp luật hợp đồng”, Nhà Pháp luật Việt – Pháp, NXB Văn hóa – Thông tin, 2002; Vũ Văn Mẫu, “Việt Nam Dân luật lược khảo – Quyển 2: Nghĩa vụ và khế ước”, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1963…
[9] Thực tế quy định BLDS và Luật khác có liên quan cũng đã dần cụ thể hóa nguyên tắc, chính sách này. Ví dụ: Điều 468.1 BLDS năm 2015 về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản quy định: “Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực”.
[10] Quy định tại BLDS 2005 chưa có sự tách biệt giữa “vô hiệu” và “hủy bỏ” về hậu quả pháp lý: “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập; Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền” (Điều 137); “Khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải trả bằng tiền” (Điều 425.3).
[11] Việc nghiên cứu cách hiểu trong luật Cộng đồng châu Âu và luật quốc tế cũng cho thấy cho thấy tính đa nghĩa, khó tách biệt của các khái niệm “vô hiệu”, “hủy hợp đồng”, “đình chỉ hợp đồng”, “thu hồi”, “không có hiệu lực”, “mất hiệu lực”, “không tồn tại” hay còn cả “không có hiệu lực với người thứ ba” là những khái niệm gặp phải khi nghiên cứu trong các văn bản, bất kể đó là trong luật thực định hay trong những quy định được pháp điển hóa (Xem thêm Nhà Pháp luật Việt – Pháp “Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng”, NXB Từ điển Bách khoa, 2007).
SOURCE: Kỷ yếu Hội thảo “Hợp đồng vô hiệu trong pháp luật một số nước”, Viện Luật so sánh, Đại học Luật Hà Nội, 25/9/2018
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: 1. SỬA ĐỔI BLDS 2005, 3. Hợp đồng thương mại, Giao dịch - Đại diện - Thời hiệu, Hợp đồng |
Bài viết rất hay, cảm ơn trang đã chia sẻ!