THS. NGUYỄN THỊ THU THỦY – Viện Nhà nước và Pháp luật, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam
Sự tồn tại của hệ thống tư pháp nói chung và các hình thức tố tụng nói riêng dựa trên cơ sở các nhu cầu của các quan hệ xã hội. Giữa các cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự nhằm thiết lập, thay đổi hoặc hủy bỏ các quyền lợi hay nghĩa vụ của mình luôn tồn tại khả năng phát sinh những bất đồng và tranh chấp và tư pháp có nhiệm vụ giải quyết các mâu thuẫn đó. Việc phân định ra các loại thủ tục tố tụng khác nhau là dựa trên bản chất của quan hệ pháp luật cần điều chỉnh. Bản án, quyết định của tòa án về dân sự là căn cứ để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức tham gia quan hệ pháp luật dân sự về tài sản và nhân thân. Vì thế, các thủ tục tố tụng phải được xây dựng một cách logic để đảm bảo rằng quy trình đó sẽ cho ra được những bản án, quyết định hợp pháp và công bằng. Quy trình này bao gồm một chuỗi các hoạt động như thụ lý vụ án, thu thập, xác minh, nghiên cứu chứng cứ, mở phiên tòa sơ thẩm, mở phiên tòa phúc thẩm… Tất cả các hoạt động trên đều nhằm mục tiêu đi tìm sự thật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự cũng như những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Với những vụ án dân sự cần giải quyết có đặc điểm là tất cả các chứng cứ chứng minh sự thật đều rõ ràng, sự thật của vụ án dễ dàng được nhận biết hoặc chỉ sau một số hoạt động xác minh đơn giản thì nhu cầu đi tìm sự thật trên không còn đặt ra nữa mà vấn đề duy nhất còn lại là có sự phán xét nhân danh Nhà nước nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của các bên mà thôi. Đó chính là nhu cầu để xây dựng thủ tục rút gọn.
1. Khái niệm thủ tục tố tụng rút gọn
Thủ tục rút gọn, với chức năng là một quy trình tố tụng đảm bảo giải quyết nhanh gọn vụ án dân sự hơn so với quy trình tố tụng thông thường, có những đặc điểm đặc trưng sau:
Thứ nhất, về hình thức, thủ tục tố tụng rút gọn có thể là một thủ tục chung hoặc áp dụng riêng cho một loại quyết định cụ thể, ví dụ: “thủ tục ra lệnh thanh toán”, “thủ tục ra lệnh buộc làm một công việc” (Pháp, Đức, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Đài Loan…).
Thứ hai, thủ tục tố tụng rút gọn có thể là một phần trong trình tự tố tụng thông thường được rút gọn hoặc là một trình tự tố tụng rút gọn bên cạnh thủ tục tố tụng thông thường. Bộ luật Tố tụng Dân sự Pháp xây dựng những thủ tục xét xử nhanh để giải quyết một số tranh chấp mang tính đặc thù hoặc đơn giản bên cạnh thủ tục xét xử thông thường.
Thứ ba, thủ tục rút gọn giảm thiểu các yếu tố không cần thiết phù hợp với tính chất của loại vụ án dân sự được áp dụng. Những hoạt động tố tụng vốn là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động tìm kiếm và chứng minh sự thật khách quan ở thủ tục tố tụng thông thường đều có thể bị giản lược.
Thứ tư, bản án, quyết định của tòa án có giá trị chung thẩm. Điều này đảm bảo rằng vụ án dân sự sẽ không bị kéo dài về thời gian giải quyết, hạn chế được những thiệt hại không cần thiết cho xã hội.
Thứ năm, thủ tục rút gọn là một cơ chế mở mà các đương sự được quyền lựa chọn. Với những trường hợp thuộc phạm vi được xét xử theo thủ tục rút gọn, các đương sự vẫn có quyền lựa chọn được xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc theo thủ tục tố tụng thông thường. Bộ luật Tố tụng Dân sự Cộng hòa Liên bang Đức cho phép chủ nợ được tự do lựa chọn giữa thủ tục tố tụng thông thường với thủ tục tố tụng rút gọn.
Từ đó chúng ta có thể đi đến khái niệm về thủ tục tố tụng rút gọn như sau: thủ tục tố tụng rút gọn là dạng đơn giản hóa của thủ tục xét xử thông thường, được sử dụng để giải quyết các vụ án dân sự có chung những đặc điểm là nhỏ, đơn giản, rõ ràng và có giá trị tranh chấp nhỏ. Phán quyết và quyết định của tòa án sử dụng thủ tục tố tụng rút gọn có thể có giá trị chung thẩm.
2. Vai trò, ý nghĩa của thủ tục tố tụng rút gọn
Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của nền kinh tế thị trường ở nước ta đặt ra nhu cầu giải quyết nhanh chóng các tranh chấp dân sự. Trong nền kinh tế thị trường, các hoạt động nhằm thiết lập quyền và nghĩa vụ về tài sản trong các giao dịch dân sự nói chung và giao dịch kinh doanh thương mại nói riêng thường xảy ra tranh chấp. Nếu những tranh chấp này không được giải quyết nhanh chóng, triệt để sẽ gây ra những ảnh hưởng không tốt đến quá trình quay vòng của đồng vốn có liên quan, nhất là với những tranh chấp liên quan đến các tài sản lớn có hệ số sinh lời cao, những tài sản là tiền, vàng có giá trị giao dịch biến đổi nhanh chóng. Ngoài ra, việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn còn thúc đẩy hoạt động hội nhập quốc tế khi mà các quan hệ dân sự, thương mại, lao động, hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài chiếm tỷ lệ ngày càng lớn.
Có thể nhận thấy, sự phổ biến của thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự các nước cũng như những hiệu quả cả về kinh tế và xã hội mà nó mang lại. Ngoài Cộng hòa Pháp – một nước có thể coi là hình mẫu tiêu biểu của các nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, thì Australia và một số nước châu Á có điều kiện gần gũi và tương đồng với Việt Nam như Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore… đều có những quy định về thủ tục tố tụng rút gọn này. Thủ tục rút gọn tiết kiệm thời gian giải quyết vụ án hơn so với thủ tục tố tụng thông thường. Đây là hệ quả tất yếu của việc giản lược các hoạt động tố tụng và cũng là một trong những mục tiêu đầu tiên mà thủ tục rút gọn hướng tới.
Ngoài ra, chi phí dành cho việc giải quyết vụ án thấp. Đây cũng là mục tiêu của thủ tục rút gọn và là kết quả của việc giảm bớt các yếu tố ít quan trọng trong thủ tục tố tụng thông thường. Chi phí nói đến ở đây bao gồm cả chi phí từ phía các đương sự và đối với Nhà nước. Án phí, lệ phí và các chi phí tố tụng được giảm nhẹ cũng góp phần nâng cao khả năng tiếp cận công lý của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Chi phí từ phía Nhà nước cho hoạt động tố tụng bao gồm các chi phí về tài chính và nhân lực. Chi phí tố tụng cho thủ tục tố tụng rút gọn chỉ bằng 1/3 chi phí giải quyết việc cùng loại theo thủ tục tố tụng thông thường. Trường hợp quyết định rút gọn bị kháng cáo, thì yêu cầu thanh toán nợ được chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường và được trừ đi 1/3 chi phí tố tụng do đã nộp trước đây. Theo ước tính thì ở Cộng hòa Liên bang Đức có đến 90% số đơn yêu cầu thanh toán nợ theo thủ tục tố tụng rút gọn được thi hành án ngay, chỉ có 10% quyết định bị kháng cáo. Hàng năm, ở Đức có hàng triệu đơn yêu cầu thanh toán nợ được giải quyết theo thủ tục này.
3. Phạm vi áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn
Mặc dù việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn xuất phát từ yếu tố đơn giản, rõ ràng của vụ án nhưng không phải tất cả các trường hợp như vậy đều có thể được áp dụng thủ tục rút gọn.
Điều này xuất phát từ bản chất của việc quy định về thủ tục rút gọn. Việc xét xử nhanh chóng các vụ án có cùng một thuộc tính là sự thật rõ ràng, đơn giản mà không cần phải qua tất cả các khâu của tố tụng thông thường thực chất là sự cân đối về chi phí cơ hội của các nguồn lực xã hội. Lý thuyết về chi phí cơ hội chỉ ra rằng, nếu một lượng nguồn lực xã hội với nghĩa là các khoản tài chính, nhân lực, thời gian… được sử dụng vào một mục đích đem lại kết quả có giá trị là A mà cùng với lượng nguồn lực đó nếu sử dụng vào mục đích khác đem lại giá trị là A+ lớn hơn A, thì như vậy là nguồn lực này đã không được sử dụng một cách hiệu quả nhất; còn nếu trong trường hợp A có giá trị nhỏ hơn lượng nguồn lực đã bỏ ra thì đấy là sự lãng phí nguồn lực xã hội. Trong việc xây dựng thủ tục rút gọn, sự so sánh giữa một bên là những lợi ích không lớn cần phải bảo vệ và một bên là những hao tổn, chi phí của Nhà nước và đương sự nếu việc giải quyết vụ án phải trải qua nhiều giai đoạn, nhiều cấp xét xử. Chính vì thế, chỉ với những tranh chấp dân sự có giá trị tranh chấp nhỏ mới có thể được áp dụng xét xử theo thủ tục rút gọn.
Như vậy, các trường hợp không cần phải áp dụng thủ tục xét xử thông thường mà có thể lựa chọn áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn là các vụ án không chỉ đảm bảo yếu tố đơn giản, sự thật rõ ràng, mà còn phải có giá trị tranh chấp nhỏ. Đơn giản về tình tiết, về chứng cứ chứng minh, về xác định quyền và nghĩa vụ các bên. Sự thật rõ ràng là việc tình tiết tranh chấp do hai bên đương sự trình bày về cơ bản là thống nhất, chứng cứ đưa ra tương đối đáng tin cậy, có sức mạnh chứng minh, không cần tòa án tiến hành công việc điều tra, thu thập chứng cứ mà vẫn có thể làm rõ được sự thật, xác định rõ được trách nhiệm, hoặc sau khi tiến hành một vài công tác điều tra thì có thể làm rõ được sự thật của vụ án.
Sự thật rõ ràng còn thể hiện qua việc xác định quyền lợi, nghĩa vụ của các bên trong quan hệ dân sự đang tranh chấp tương đối dễ dàng, đồng thời, quan hệ pháp luật về việc giải quyết tranh chấp đó cũng đã được quy định tương đối rõ.
Giá trị tranh chấp nhỏ nghĩa là hai bên không có bất đồng lớn về nguyên tắc trong tranh chấp đúng sai, trách nhiệm phải gánh chịu trong vụ án cũng như về các khoản chi phí tố tụng.
Tuy nhiên, để áp dụng ở Việt Nam thủ tục tố tụng rút gọn với tư cách là một dạng đơn giản của thủ tục tố tụng thông thường khi lược bỏ rất nhiều yếu tố: từ thời hạn giải quyết vụ án đến Hội đồng xét xử, cũng như các giai đoạn tiền tố tụng thì cần phải xét đến tính tương thích của nó với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự.
4. Thủ tục tố tụng rút gọn trong sự phát triển tố tụng dân sự Việt Nam
Khi nghiên cứu về lịch sử pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam, có nhiều ý kiến cho rằng đã có sự tồn tại của các yếu tố tiền đề cho thủ tục tố tụng rút gọn.
Trước hết là các quy định trong các sắc lệnh về tổ chức và thẩm quyền của tòa án nhân dân trong thời gian đầu thành lập nước.
Cùng với Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946 quy định về thẩm quyền độc lập của thẩm phán trong việc ra phán quyết đối với những loại việc nhỏ, giản đơn, Sắc lệnh số 51/SL “Ấn định thẩm quyền các tòa án và sự phân công giữa các nhân viên trong tòa án” ngày 17/4/1946 tại Điều 6 quy định quyền xét xử chung thẩm về dân sự và thương sự của toà án sơ cấp gồm những việc kiện dân sự, thương sự về động sản mà giá ngạch do nguyên đơn định không quá 150đ và những việc kiện về các khoản lệ phí đã phát sinh ra trước toà án ấy không cứ giá ngạch nào. Tòa án đệ nhị cấp cũng có quyền xét xử chung thẩm với những việc kiện về bất động sản mà giá ngạch theo thời giá hôm khởi tố hay theo văn tự không quá 150đ, những việc kiện về động sản mà giá ngạch trên 450đ nhưng dưới 750đ.
Sắc lệnh số 85/SL “Về cải cách bộ máy tư pháp và Luật tố tụng” ngày 22/5/1950 quy định tại Điều 7: Ban Tư pháp xã có quyền xử chung thẩm những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn từ 300đ trở xuống do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện hay chậm nhất lúc việc vi cảnh đem ra xử.
Có thể thấy, việc xác định các vụ án được xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm theo Sắc lệnh số 51/SL không phải là thủ tục rút gọn. Xác định giá ngạch của vụ án để phân cấp giải quyết chỉ mang tính chất tổ chức trong hoạt động tư pháp mà thôi. Thủ tục rút gọn không chỉ được hiểu là xét xử một cấp mà còn được hiểu là thủ tục áp dụng chung cho các vụ án có cùng tính chất, đặc điểm. Việc quy định về thủ tục rút gọn cũng phải đảm bảo quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp cho đương sự, đảm bảo quyền được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức. Việc quy định quyền xét xử chung thẩm của tòa án, nhưng không quy định quyền lựa chọn thủ tục tố tụng của người dân vô hình trung đã làm giảm khả năng tiếp cận công lý của công dân.
Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1960 Điều 12 quy định: “Khi sơ thẩm, toà án nhân dân gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì toà án nhân dân có thể xử không có hội thẩm nhân dân” và Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án do pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân tối cao và những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án nhân dân cấp dưới mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để xử (Điều 21).
Tiếp thu quy định trên của Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quy định tại khoản 3 Điều 11 về Thẩm quyền của các toà án các cấp quy định: trong trường hợp đặc biệt, Toà án nhân dân tối cao giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền của toà án cấp dưới mà Toà án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết. Hội đồng xét xử sơ thẩm hoặc sơ thẩm đồng thời chung thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân.
Như vậy, bắt đầu từ Luật Tổ chức tòa án nhân dân 1960, pháp luật tố tụng dân sự đã xét đến việc xét xử những vụ án đơn giản, không quan trọng với việc tối giản thành phần Hội đồng xét xử và vụ án chỉ được giải quyết bởi một thẩm phán, đồng thời, việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm là thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao. Tuy nhiên, do không có các căn cứ để xác định khả năng được áp dụng thủ tục này nên tất cả các vụ án sơ thẩm thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân tối cao và những vụ án mà Tòa án nhân dân tối cao lấy lên để giải quyết dù có giá trị tranh chấp lớn, phức tạp hay đơn giản đều chỉ được xét xử một lần. Quy chế này làm hạn chế khả năng kháng cáo của công dân và tổ chức khi không đồng ý với kết quả giải quyết vụ án. Điều đó cũng có nghĩa là làm tăng khả năng gây ra các thiệt hại về tài sản và nhân thân của công dân và các tổ chức trong xã hội.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại tòa án nhân dân, việc áp dụng các quy định về xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm của các tòa án nhân dân hầu như không có.
Hiện nay, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 thì vụ án dân sự (có tranh chấp) và việc dân sự (không có tranh chấp) được giải quyết theo hai trình tự, thủ tục khác nhau. Sự phân định hai thủ tục này ở chỗ vụ việc dân sự có yếu tố tranh chấp hay không. Tuy nhiên, yếu tố tranh chấp không phải là cách xác định đối tượng của thủ tục rút gọn bởi lẽ, để xác định việc kết hôn trái pháp luật về tuổi kết hôn hay trái với quy định về mối quan hệ huyết thống trong nhiều trường hợp là rất phức tạp. Trong khi đó, những vụ án đòi nợ với chứng cứ rõ ràng, có sự xác nhận của hai bên và có chứng thực của Ủy ban nhân dân, hay các hóa đơn, biên lai có nguồn gốc rõ ràng, chứng minh dễ dàng thì lại phải trải qua nhiều khâu thủ tục rườm rà với thời gian dài và khả năng bị kéo dài do kháng cáo lên cấp xét xử phúc thẩm.
Như vậy, xem xét trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng dân sự ở nước ta, mặc dù có nhiều quy định thể hiện tính rút gọn thủ tục tố tụng trong việc giải quyết một số loại án nhất định nhưng nhìn chung, đây mới chỉ là sự giản lược ở một số yếu tố nhất định mà chưa có sự quy định một cách tổng thể về một thủ tục đặc biệt dành cho những vụ án dân sự đơn giản, rõ ràng và có giá trị tranh chấp nhỏ.
Xuất phát từ những đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp và thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, tại Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: cần phải “nghiên cứu áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng”. Dù vậy, cho đến nay, thủ tục rút gọn mới được áp dụng trong tố tụng hình sự chứ chưa được áp dụng trong tố tụng dân sự.
Những lý do ngăn cản sự tồn tại của thủ tục tố tụng rút gọn trong pháp luật tố tụng dân sự có thể kể đến là sự không phù hợp với các nguyên tắc chung của pháp luật tố tụng dân sự, sự không hiệu quả của các thủ tục có mang nhân tố rút gọn đã từng tồn tại trong lịch sử phát triển pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
5. Khả năng áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn ở Việt Nam
Một trong những yếu tố ngăn cản việc áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2004 là sự không tương thích giữa cơ chế giải quyết của thủ tục rút gọn và các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS.
– Nguyên tắc xét xử tập thể và có hội thẩm nhân dân tham gia
Về mặt tổ chức hoạt động xét xử, các tranh chấp dân sự phải tuân theo các nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, BLTTDS. Nguyên tắc tòa án xét xử tập thể và có hội thẩm nhân dân tham gia được quy định trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và được cụ thể hóa trong BLTTDS tại Điều 11 và Điều 14.
Toà án xét xử tập thể có nghĩa là việc xét xử bất cứ một vụ án nào, theo trình tự nào cũng do một Hội đồng thực hiện. Thành phần Hội đồng xét xử (HĐXX) ở mỗi cấp xét xử đối với từng loại vụ án được quy định tại các điều tương ứng trong pháp luật tố tụng: Thành phần HĐXX sơ thẩm (Điều 52 BLTTDS); Thành phần HĐXX phúc thẩm (Điều 53 BLTTDS); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm (Điều 54 BLTTDS). Việc xét xử của toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, việc xét xử của toà án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật tố tụng. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán (Điều 129 Hiến pháp năm 1992; Điều 4 Luật Tổ chức tòa án nhân dân. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán cần được hiểu là khi xét xử bất kỳ một vụ án nào thuộc thẩm quyền của toà án mà có hội thẩm tham gia, thì hội thẩm và thẩm phán có quyền ngang nhau trong việc giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án, không phân biệt vấn đề đó là về mặt tố tụng hay về mặt nội dung.
Nguyên tắc có hội thẩm tham gia được cụ thể hóa trong Điều 52 BLTTDS về thành phần HĐXX sơ thẩm, theo đó, HĐXX sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân, trong trường hợp đặc biệt có thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân. Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân chủ và tính nhân dân sâu sắc của Nhà nước ta, đó là tăng cường sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của tòa án nhân dân các cấp.
Như vậy, xét xử tập thể và thành phần của HĐXX có hội thẩm nhân dân tham gia phải được áp dụng cho tất cả các tranh chấp dân sự. Chính vì thế, có quan điểm cho rằng, nếu quy định việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục tố tụng rút gọn bởi một thẩm phán duy nhất sẽ là sự vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc Hiến định và các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS.
Tuy nhiên, nhìn vào lịch sử tố tụng dân sự Việt Nam có thể nhận thấy, đã có nhiều sự thay đổi trong quan niệm về HĐXX. Trước đây, theo quy định của các pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động thì tất cả các vụ tranh chấp đều được xét xử ở tòa án cấp sơ thẩm với HĐXX gồm cả thẩm phán và hội thẩm nhân dân. Đến nay, BLTTDS 2004 đã quy định thêm một loại thủ tục đặc thù riêng để giải quyết việc dân sự. Thủ tục này quy định một thẩm phán giải quyết, trong trường hợp có yếu tố nước ngoài thì là Hội đồng gồm ba thẩm phán. Như vậy có thể thấy, việc sửa đổi các quy định của pháp luật nhằm đáp ứng và phù hợp với các cam kết quốc tế, phù hợp với thực tiễn đang được Nhà nước ta quan tâm.
Trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục thông thường quy định trong BLTTDS 2004, hòa giải là một thủ tục bắt buộc, trừ một số trường hợp đặc biệt. Thủ tục này do một thẩm phán phụ trách và nếu hai bên đi đến hòa giải thành thì thẩm phán ra quyết định công nhận hòa giải thành, quyết định này cũng có giá trị chung thẩm mà không cần phải có sự tham gia của hội thẩm nhân dân.
Với quy định rõ ràng về thủ tục tố tụng rút gọn áp dụng cho các vụ án dân sự trong Luật Bảo vệ người tiêu dùng, các nhà làm luật đã chấp nhận sự đột phá để cải cách pháp luật tố tụng dân sự cho phù hợp với nhu cầu của thực tiễn, đồng thời, mở ra cơ hội để áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn cho những loại vụ án dân sự khác.
– Nguyên tắc hai cấp xét xử
Nguyên tắc hai cấp xét xử được quy định tại Điều 17 của BLTTDS, theo đó, bản án, quyết định sơ thẩm của tòa án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của BLTTDS. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn do Bộ luật quy định thì có hiệu lực pháp luật; đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
Mục tiêu chính của quy định về thủ tục tố tụng rút gọn là tiết kiệm thời gian và chi phí cho cả tòa án và các đương sự, nên nếu chỉ quy định thủ tục tố tụng rút gọn ở cấp sơ thẩm và bản án, quyết định được ban hành không có giá trị chung thẩm thì mục đích này gần như không đạt được. Hầu hết các nước đều có quy định bản án, quyết định được ban hành khi xét xử bằng thủ tục tố tụng rút gọn đều có giá trị chung thẩm, tức là hạn chế quyền kháng cáo của đương sự. Trong điều kiện hiện nay, đối với những loại vụ kiện có giá ngạch thấp, cũng cần phải lựa chọn giữa một bên là những lợi ích không lớn cần phải bảo vệ triệt để và một bên là những hao tổn về thời gian, sức lực và những chi phí tốn kém của nhà nước và các đương sự khi vụ kiện phải trải qua nhiều cấp xét xử hơn. Trong nền kinh tế thị trường, khi mà ngành tòa án đang đối diện với sự gia tăng của các số lượng các án kiện dân sự, kinh tế, lao động mà thời gian đối với từng cá nhân và xã hội ngày càng quý giá thì việc áp dụng cơ chế xét xử một lần đối với các vụ án dân sự có giá ngạch thấp và đơn giản là hoàn toàn cần thiết. Trong điều kiện Việt nam hiện nay, việc quy định một cấp xét xử đối với một số vụ án có tính chất đặc thù là có thể thực hiện được về mặt kỹ thuật lập pháp.
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặt ra vấn đề phải bảo vệ quyền và lợi ích của công dân cả về tài sản và nhân thân, vì thế, việc thiết lập cơ chế giải quyết nhanh gọn, hợp lý, tiết kiệm thời gian và công sức của cả các đương sự lẫn Nhà nước là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng nền tư pháp hiện đại, hiệu quả, công bằng. Điều đó cũng phù hợp nhu cầu của công tác cải cách tư pháp hướng tới lợi ích của người dân và phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
SOURCE: TẠP CHÍ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT, SỐ 12/2011, TR. 37- 42
<
p align=”center”>CÁM ƠN TÁC GIẢ ĐÃ CHIA SẺ BÀI VIẾT
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: 1. Lý luận chung, 3. Các giai đoạn tố tụng, Thẩm quyền của Tòa án |
Leave a Reply