admin@phapluatdansu.edu.vn

TRÁCH NHIỆM CUNG CẤP THÔNG TIN TÀI SẢN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRONG PHÁP LUẬT CHÂU ÂU VÀ PHÁP LUẬT CHLB ĐỨC

THS. NGUYÊN VĂN NGHĨA – Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (NCS. Trường Đại học Passau, CHLB Đức)

1. Quy định của pháp luật châu Âu về trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án

1.1 Cơ quan, tổ chức có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản của người phải thi hành án

Các Hướng dẫn để thực hiện tốt hơn các Kiến nghị hiện hành của Hội đồng châu Âu về Thi hành án dân sự đã được thông qua bởi Ủy ban châu Âu về tính hiệu quả của hoạt động tư pháp tại phiên họp toàn thể lần thứ 14[1] (sau đây gọi tắt là HDUBCA) đã chỉ ra rằng, sự hợp tác giữa các cơ quan nhà nước khác nhau và giữa các tổ chức tư nhân phù hợp với quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân là hết sức cần thiết để có thể tiếp cận trực tiếp và nhanh nhất các nguồn thông tin đa dạng về tài sản của bị đơn dân sự (người phải thi hành án). Pháp luật cần quy định thủ tục thống nhất để bảo đảm chắc chắn về sự hợp tác hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước với nhau và với các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có liên quan đến thi hành án dân sự. Ngoài ra, để bảo đảm hiệu quả trong công tác thi hành án dân sự, Hướng dẫn này cũng yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước có lưu giữ các thông tin liên quan đến nhân thân, tài sản của người phải thi hành án phải có trách nhiệm cung cấp cho người có thẩm quyền thi hành án trong phạm vi giới hạn thời gian theo quy định và phù hợp với quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân.

1.2. Thời gian cung cấp thông tin tài sản của người phải thi hành án

Kiến nghị số 17 ngày 09/09/2003 của Ủy ban Bộ trưởng các quốc gia thành viên Châu Âu về thi hành án dân sự, được thông qua bởi Ủy ban các Bộ trưởng ngày 09/09/2003 tại phiên họp thứ 851[2] (Kiến nghị số 17) yêu cầu, việc tiếp cận các nguồn thông tin cần thiết về tài sản của người bị kiện tại các cơ quan đăng ký và từ các cơ quan, tổ chức khác cũng như từ tuyên bố cung cấp thông tin của người bị kiện phải được thực hiện một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất có thể (nguyên tắc hướng dẫn số III-2-6). Ngoài ra, HDUBCA cũng đã yêu cầu các quốc gia thành viên nên cho phép người có thẩm quyền thi hành án tiếp cận trực tiếp ở mức độ nhanh nhất thông tin về tài sản của người phải thi hành án. Các quốc gia thành viên được khuyến khích nên có sẵn các kênh thông tin về tài sản của người phải thi hành án để người có thẩm quyền thi hành án có thể tiếp cận một cách an toàn và nhanh nhất thông qua việc sử dụng mạng internet.

1.3. Đặc điểm thông tin và yêu cầu thiết lập cơ sở dữ liệu thông tin tài sản thi hành án

Kiến nghị số 17 khẳng định rằng, thủ tục thi hành án dân sự chỉ có thể được thực hiện một cách có hiệu quả khi người bị kiện cung cấp các thông tin được cập nhật mới nhất về thu nhập, các loại tài sản và những vấn đề khác có liên quan (nguyên tắc hướng dẫn số III-1-d). Nhằm mục đích ngăn chặn người bị kiện trốn tránh nghĩa vụ thi hành án bằng cách tẩu tán tài sản, HDUBCA quy định: Các quốc gia thành viên được khuyến khích thiết lập một cơ sở dữ liệu duy nhất tích hợp tất cả các nguồn thông tin về tài sản của người phải thi hành án (ví dụ, quyền sở hữu đối với các phương tiện giao thông, quyền sở hữu bất động sản, các khoản nghĩa vụ của người phải thi hành án, các khoản hoàn thuế, v.v..). Cơ sở dữ liệu tích hợp thông tin này được tiếp cận hạn chế và có điều kiện nhằm bảo đảm các yêu cầu về bảo mật thông tin, hạn chế rủi ro do bị rò rỉ thông tin và cũng là nhằm bảo vệ quyền lợi cho người phải thi hành án. Việc tiếp cận thông tin của người có thẩm quyền thi hành án chỉ bị giới hạn đối với các dữ liệu thông tin mà việc tiếp cận này có thể dẫn đến việc kéo dài thời gian thi hành án và phải được kiểm soát chặt chẽ bởi những quy định của luật pháp. Các quốc gia thành viên nên có những quy định pháp lý chặt chẽ, hiệu quả để bảo đảm rằng bất kỳ yêu cầu cung cấp thông tin nào về tài sản của người bị kiện cũng phải có lý do chính đáng và hợp lý.

1.4. Bí mật thông tin và bảo vệ dữ liệu thông tin tài sản của người phải thi hành án

Pháp luật Châu Âu yêu cầu tất cả các quốc gia nội luật hóa quy định: Tất cả các cơ quan nhà nước và các tổ chức tư nhân không được viện dẫn bất kỳ một lý do nào về bí mật trong kinh doanh để từ chối cung cấp thông tin cho cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án dân sự khi có yêu cầu. Tuy nhiên, pháp luật Châu Âu cũng khuyến nghị quy định của pháp luật trong nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân nên được kiểm tra, bảo đảm phù hợp với những thay đổi của pháp luật thi hành án dân sự. Người có thẩm quyền thi hành án phải có trách nhiệm duy trì, bảo mật các thông tin nhạy cảm, giữ bí mật thông tin với sự cẩn trọng cao độ trong suốt quá trình tổ chức thi hành án. Trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ thì các biện pháp trách nhiệm kỷ luật nên được áp dụng, cùng với chế tài dân sự và hình sự (HDUBCA). Việc tìm kiếm và thu giữ thông tin về tài sản của người bị kiện nên được thực hiện một cách hiệu quả nhất có thể, tuy nhiên, cũng cần quan tâm đến các vấn đề về bảo vệ quyền con người và những quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Kiến nghị số 17).

2. Quy định của pháp luật thi hành án dân sự Cộng hòa Liên bang Đức về thông tin tài sản của người phải thi hành án

Thông tin tài sản của người phải thi hành án và các trách nhiệm pháp lý có liên quan đến việc cung cấp thông tin tài sản thi hành án chủ yếu được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) Cộng hòa Liên bang (CHLB) Đức năm 1950, được sửa đổi, bổ sung và thông qua vào các năm 2005, 2014; và Đạo luật Thuế của Đức năm 1976, sửa đổi, bổ sung năm 2002, 2017[3]. Dưới đây là một số nội dung cơ bản về chủ thể cung cấp thông tin, phạm vi thông tin được cung cấp, thời điểm cung cấp thông tin và các chế tài có liên quan đến trách nhiệm cung cấp thông tin tài sản thi hành án theo quy định của pháp luật CHLB Đức.

2.1 Chủ thể cung cấp thông tin tài sản thi hành án

Pháp luật CHLB Đức lựa chọn phương án trao quyền cho cơ quan thi hành án dân sự trực tiếp yêu cầu người phải thi hành án phải cung cấp thông tin về tài sản của mình. Theo quy định của pháp luật CHLB Đức, người được thi hành án là người có quyền lựa chọn cơ quan có thẩm quyền thi hành án hoặc nhân viên tòa án tổ chức thi hành án với các yêu cầu thi hành án của mình. Vì vậy, người được thi hành án mới là người kiểm soát và quyết định các biện pháp tổ chức thi hành án, ví dụ các trường hợp thu giữ ô tô, nắm giữ giấy tờ thế chấp bất động sản, bán đấu giá bất động sản[4], v.v.. Để thuận lợi cho người được thi hành án trong việc dễ dàng lựa chọn một loạt các biện pháp thi hành án phù hợp thì người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp một bản kê khai chi tiết về tài sản của mình cho người có thẩm quyền thi hành án theo lựa chọn của người được thi hành án[5]. Ngoài bản tuyên bố thông tin về tài sản do người phải thi hành án cung cấp, cơ quan thi hành án có thẩm quyền cũng có thể tiếp cận các nguồn thông tin khác có chứa các thông tin về cá nhân cũng như tài sản của người phải thi hành án từ chủ sử dụng lao động của người phải thi hành án, Văn phòng Thuế liên bang, cơ quan quản lý giao thông vận tải liên bang, v.v..[6]

2.1. Mức độ thông tin về tài sản mà người phải thi hành án phải cung cấp

Hiện nay, đang có hai quan điểm chính về mức độ thông tin về tài sản của người phải thi hành án mà họ phải cung cấp[7]. Quan điểm thứ nhất cho rằng, người phải thi hành án phải cung cấp toàn bộ các thông tin về tất cả các tài sản của mình; quan điểm thứ hai cho rằng, người phải thi hành án chỉ phải cung cấp thông tin về tài sản tương ứng với mức yêu cầu thi hành án do người được thi hành án đưa ra[8]. Như vậy, quan điểm thứ hai có xu hướng bảo vệ quyền lợi của người phải thi hành án nhưng có nguy cơ rủi ro nhiều hơn cho người được thi hành án và thời gian tổ chức thi hành án có thể sẽ phải kéo dài hơn nếu người được thi hành án không thể đề nghị áp dụng được ngay những biện pháp thi hành án phù hợp với loại tài sản mà người phải thi hành án đã cung cấp, do vậy, việc yêu cầu cung cấp thông tin tài sản thi hành án sẽ phải được thực hiện lặp đi lặp lại nhiều lần.

Đối với các yêu cầu thi hành án về tiền, pháp luật thi hành án dân sự CHLB Đức quy định người phải thi hành án phải cung cấp thông tin về tất cả các loại tài sản thuộc về người phải thi hành án. Đồng thời, trong danh sách tài sản được kê khai, người phải thi hành án phải cung cấp đầy đủ các lý do cũng như những bằng chứng đối với những thông tin về tài sản được cung cấp[9].

2.3. Thời điểm cung cấp thông tin tài sản thi hành án và khoảng thời gian trước khi có bản án mà người phải thi hành án đã thực hiện việc chuyển nhượng tài sản cho người có quan hệ gần gũi

Theo quy định của khoản 1 Điều 802f Bộ luật TTDS Đức, Chấp hành viên thi hành án sẽ ấn định hai tuần để người phải thi hành án phải cung cấp thông tin về tình hình tài chính và tài sản của mình. Nếu hết thời hạn nêu trên mà người phải thi hành án không cung cấp thông tin về tài sản của mình thì ngay sau đó, Chấp hành viên sẽ thu xếp một buổi làm việc tại Văn phòng thi hành án của mình với người phải thi hành án để họ cung cấp thông tin về tài sản và khả năng tài chính ngay tại buổi gặp đó. Bản kê khai chi tiết về tài sản của người phải thi hành án sẽ được lưu giữ tại trung tâm đăng ký của các bang và có thể được xem trực tuyến để lấy thông tin thông qua Tòa Thi hành án, Tòa án giải quyết phá sản, những Tòa án lưu giữ thông tin đăng ký về thương mại và những cơ quan đăng ký khác cũng như các cơ quan có thẩm quyền truy tố theo quy định tại Điều 802k Bộ luật TTDS Đức. Nếu người được thi hành án có căn cứ cho rằng, có sự thay đổi đáng kể về tài sản của người phải thi hành án thì sau hai năm, kể từ lần cung cấp bản kê khai tài sản đầu tiên, người phải thi hành án phải có nghĩa vụ cung cấp một bản kê khai mới, khai chi tiết các thông tin về tài sản của mình cho cơ quan thi hành án[10].

Ngoài ra, theo quy định của đoạn 1 khoản 2 Điều 802c Bộ luật TTDS và khoản 1 Điều 284 Đạo luật về Thuế của Đức[11], người phải thi hành án còn phải cung cấp một danh sách tất cả các giao dịch (chuyển nhượng, mua bán, tặng cho…) với những người có quan hệ gần gũi[12] trong thời gian hai năm trước đó tính đến thời điểm người phải thi hành án cung cấp bản kê khai thông tin tài sản cho cơ quan thi hành án. Đối với các loại dịch vụ được cung cấp miễn phí bởi người phải thi hành án thì họ cũng phải kê khai tất cả các giao dịch này trong thời gian bốn năm trước đó tính đến thời điểm cung cấp bản kê khai thông tin tài sản cho cơ quan thi hành án. Bản kê khai chi tiết tài sản phải được đính kèm với một bản tuyên bố thay cho một lời tuyên thệ rằng tất cả thông tin trong đó là chính xác bằng tất cả sự hiểu biết và kiến thức của mình[13].

2.4. Chế tài áp dụng nếu người phải thi hành án vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản của mình

Như đã phân tích ở trên, theo pháp luật thi hành án dân sự của Đức, đối với các yêu cầu thi hành án về tiền, người phải thi hành án phải có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình cho Chấp hành viên thi hành án theo yêu cầu. Nếu người phải thi hành án không đến văn phòng của Chấp hành viên theo lịch hẹn để cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình mà không có lý do chính đáng hoặc từ chối cung cấp thông tin về tài sản và tình hình tài chính của mình, theo Điều 802c Bộ luật TTDS Đức, mà không đưa ra được bất kỳ một lý do phù hợp nào thì họ sẽ bị bắt giữ để buộc người phải thi hành án phải cung cấp các thông tin theo yêu cầu. Người phải thi hành án có thể sẽ bị bắt giam giữ trên cơ sở lệnh bắt giữ được phát hành bởi Tòa án theo yêu cầu của người được thi hành án (biện pháp cưỡng chế giam giữ)[14] cho đến khi họ cung cấp được đầy đủ thông tin về tài sản và tình trạng tài chính của mình, thời hạn tối đa của việc giam giữ này là 06 tháng[15]. Lệnh bắt giữ không cần thiết phải được chuyển cho người phải thi hành án trước khi thực hiện việc bắt giữ[16]. Một bản photocopy đã được xác nhận của Lệnh bắt giữ sẽ được chuyển giao trực tiếp cho người phải thi hành án tại thời điểm bắt giữ[17]. Người có thẩm quyền bắt giữ người phải thi hành án trong trường hợp này là Chấp hành viên thi hành án[18].

Từ những phân tích về pháp luật thi hành án dân sự của Châu Âu và CHLB Đức liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin tài sản thi hành án đối với các loại yêu cầu thi hành án về tiền, có thể rút ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, thời điểm và khoảng thời gian mà theo đó tài sản của người phải thi hành án phải được kê khai được pháp luật quy định rộng và theo hướng mở nên đã góp phần loại trừ các giao dịch giả tạo nhằm tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án được thực hiện trước hoặc sau khi có bản án, quyết định của Tòa án.

Thứ hai, việc yêu cầu phải liệt kê chi tiết tất cả các giao dịch giữa người phải thi hành án với những người có quan hệ gần gũi với họ đã góp phần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán tài sản cho những người này thông qua các giao dịch mà bề ngoài có vẻ như là hợp pháp để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Thứ ba, trách nhiệm phải cung cấp thông tin tài sản và tình hình tài chính là nghĩa vụ pháp lý được đặt lên trước tiên đối với người phải thi hành án, vì hơn ai hết, họ là người hiểu rõ nhất thực trạng tài sản của mình và là người phải đang chấp hành nghĩa vụ từ bản án, quyết định của Tòa án. Nếu không cung cấp hoặc từ chối hợp tác với cơ quan thi hành án mà không có lý do chính đáng thì hoặc là hành vi gian dối, thiếu trung thực (vì trái với bản tuyên thệ của họ) hoặc là hành vi cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ pháp lý. Do đó, họ sẽ ngay lập tức phải gánh chịu hậu quả bất lợi phát sinh thông qua việc họ sẽ bị bắt và giam giữ để thực hiện nghĩa vụ kê khai thông tin về tình trạng tài sản của mình cho cơ quan thi hành án cũng như những hậu quả bất lợi khác.

Thứ tư, quyền hạn của Chấp hành viên thi hành án được thực hiện trực tiếp, nhanh chóng, thông qua việc họ được pháp luật trao cho quyền bắt giữ người phải thi hành án trên cơ sở Lệnh của Tòa án. Lệnh bắt giữ cũng không cần phải được thông báo trước mà sẽ chuyển cho người phải thi hành án ngay khi họ bị bắt giữ. Những quy định trao quyền thực chất cho Chấp hành viên thi hành án vừa bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, vừa bảo đảm quy trình thi hành án được thực hiện nhanh chóng, hiệu quả mà không phải thông qua nhiều khâu trung gian hoặc các thủ tục hành chính, giấy tờ phức tạp khác. Qua đó nhằm răn đe, nâng cao ý thức tự giác chấp hành án của người phải thi hành án, bảo đảm niềm tin của người dân vào hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án.

Thứ năm, các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân có liên quan không được viện dẫn bất kỳ một lý do nào về bí mật trong kinh doanh hoặc các lý do khác để từ chối cung cấp thông tin cho cơ quan, người có thẩm quyền thi hành án dân sự khi có yêu cầu. Quy định này nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan trong công tác phối hợp thi hành án và bảo đảm tôn trọng bản án, quyết định của Tòa án và tính tôn nghiêm luật pháp.

Thứ sáu, tăng cường hoàn thiện các thiết chế bảo đảm giữ bí mật thông tin khi tiếp cận các nguồn thông tin tài sản của người phải thi hành án nhằm bảo vệ quyền về bí mật thông tin cá nhân và tài sản của người phải thi hành án./.


[1]European Commission on the Efficiency of Justice, Guidelines for a better Implementation of the Existing Council of Europe’s Recommendation on Enforcement, adopted by the CEPEJ at its 14th plenary meeting (Strasbourg, 09-10 December 2009), Strasbourg, 17 December 2009.

[2]Committee of Ministers of the Council of Europe, Recommendation Rec (2003) 17 of the Committee of Ministers to member states on enforcement (adopted by the Committee of Ministers on 09 September 2003 at the 851st meeting of the Ministers’ Deputies).

[3] Christoph A. Kern, LL.M. (Harvard), Lausanne/Heidelberg, Báo cáo Quốc gia của Đức, Phần II, tr.1-3.

[4] Christoph A. Kern, LL.M. (Harvard), Lausanne/Heidelberg, Báo cáo Quốc gia của Đức, Phần I, tr.11.

[5] Khoản 1 Điều 802c Bộ luật TTDS Đức.

[6] Điều 802l Bộ luật TTDS Đức.

[7] Báo cáo tổng quan số JAI/A3/2002/02 ngày 18/02/2004 về thi hành có hiệu quả quyết định tư pháp trong Hiệp hội các quốc gia Châu Âu, tr. 35-36 và Báo cáo số 128, ngày 06.03.2008 của Ủy ban Châu Âu về Thi hành án hiệu quả ở Liên minh châu Âu: Minh bạch tài sản của người phải thi hành án, tr.11.

[8] Báo cáo tổng quan số JAI/A3/2002/02 ngày 18/02/2004 về thi hành có hiệu quả quyết định tư pháp trong Hiệp hội các quốc gia châu Âu, tr.35-36.

[9] Khoản 2 Điều 802c Bộ luật TTDS Đức.

[10]Điều 802d Bộ luật TTDS Đức.

[11] Christoph A. Kern, LL.M. (Harvard), Lausanne/Heidelberg, Báo cáo Quốc gia của Đức, Phần I, tr.13-15.

[12]Điều 138 Đạo luật Phá sản của Đức đã liệt kê đầy đủ, chi tiết những người có quan hệ gần gũi với người phải thi hành án, ví dụ như vợ hoặc chồng của người phải thi hành án; đối tác dân sự của người phải thi hành án; con cháu, anh chị em của người phải thi hành án; những người sống trong cùng gia đình với người phải thi hành án hoặc sống trong căn hộ của người phải thi hành án vào năm cuối cùng trước khi thực hiện giao dịch hoặc người có thể cung cấp thông tin về tình hình tài chính của người phải thi hành án trên cơ sở hợp đồng lao động hoặc dịch vụ với người phải thi hành án; thành viên của cơ quan đại diện hoặc cơ quan thực hiện việc giám sát, quản lý người phải thi hành án; v.v.

[13] Christoph A. Kern, LL.M. (Harvard), Lausanne/Heidelberg, Báo cáo Quốc gia của Đức, Phần I, tr.13-15; và khoản 3 Điều 802c Bộ luật TTDS Đức.

[14]Điều 802g Bộ luật TTDS Đức.

[15] Khoản 1 Điều 802j Bộ luật TTDS Đức.

[16] Khoản 1 Điều 802g Bộ luật TTDS Đức.

[17] Câu 2 khoản 2 Điều 802g Bộ luật TTDS Đức.

[18] Câu 1 khoản 2 Điều 802g Bộ luật TTDS Đức: “Die Verhaftung des Schuldners erfolgt durch einen Gerichtsvollzieher”.


SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP SỐ 1 (353) – KỲ 1  THÁNG 1/2018

Trích dẫn từ: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử – nclp.org.vn

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading