admin@phapluatdansu.edu.vn

QUY CHẾ SỐ 384/96 (CE) NGÀY 22 THÁNG 12 NĂM 1995 HỘI ĐỒNG LIÊN MINH CHÂU ÂU VỀ CHỐNG NHẬP KHẨU HÀNG HÓA BÁN PHÁ GIÁ TỪ CÁC NƯỚC NGOÀI CỘNG ĐỒNG CHÂU ÂU

Tài liệu này chỉ có ý nghĩa tham khảo

HỘI ĐỒNG LIÊN MINH CHÂU ÂU

Căn cứ Hiệp định thành lập Cộng đồng Châu Âu và đặc biệt là Điều 113 Hiệp định này,

Căn cứ các quy chế phối hợp tổ chức thị trường nông nghiệp, các quy định hướng dẫn thi hành điều 235 Hiệp định thành lập Cộng đồng Châu Âu đối với hàng hóa được chế biến từ nông sản và đặc biệt là các điều khoản miễn áp dụng nguyên tắc thay thế biện pháp ngăn chặn tại biên giới bằng biện pháp quy định tại các quy chế trên, Theo đề nghị của Ủy ban Châu Âu (1) Trên cơ sở tham khảo ý kiến của Nghị viện Châu Âu (2) (1) Xét thấy rằng theo quy chế số 2423/88 (CEE) (3), Hội đồng Liên minh Châu Âu đã thiết lập một cơ chế chung chống nhập khẩu hàng hóa bán phá giá hoặc hàng hóa được trợ giá từ các nước ngoài Cộng đồng Châu Âu;

(2) Xét thấy rằng việc thiết lập cơ chế này hoàn toàn phù hợp với các nghĩa vụ quốc tế hiện tại, đặc biệt là các nghĩa vụ xuất phát từ điều VI Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (sau đây gọi tắt là "GATT"), từ Hiệp định về thi hành điều VI GATT (Bộ luật chống bán phá giá năm 1979) và từ Hiệp định hướng dẫn thi hành các điều VI, XVI và XXIII GATT (Bộ luật về trợ cấp và thuế đối kháng);

(3) Xét thấy rằng trên nền tảng của các thỏa thuận thương mại đa phương ký kết năm 1994, nhiều hiệp định mới về thi hành điều VI GATT đã được xây dựng, do vậy, cần phải sửa đổi các quy định của Cộng đồng Châu Âu sao cho phù hợp với các hiệp định mới; đồng thời, do sự khác biệt về mặt bản chất giữa các quy định mới về hành vi bán phá giá và hành vi trợ giá, Cộng đồng cần phải xây dựng những quy định riêng về bán phá giá và trợ giá cũng như quy chế riêng về chống trợ giá và về thuế đối kháng;

Xét thấy rằng khi áp dụng các quy định này, Cộng đồng Châu Âu cần phải chú ý đến cách giải thích quy định của các đối tác thương mại chính, để cân đối giữa các quyền và nghĩa vụ quy định tại hiệp định ký kết trong khuôn khổ của GATT;

(5) Xét thấy rằng Hiệp định về thi hành ðiều VI GATT 1994 – Hiệp định mới về bán phá giá (sau đây gọi tắt là Hiệp định chống bán phá giá năm 1994) – đã đưa ra những quy định mới và chi tiết, đặc biệt là về cách tính biên độ phá giá, thủ tục mở điều tra và tiến hành điều tra chống bán phá giá, quá trình thu thập và xử lý thông tin, áp dụng các biện pháp tạm thời, áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá, thời hạn áp dụng biện pháp chống phá giá, việc rà soát lại quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá và phổ biến các thông tin về điều tra chống phá giá; rằng với những thay đổi lớn nêu trên, Liên minh cần phải nhanh chóng chuyển hóa những quy định mới vào hệ thống quy phạm pháp luật Cộng đồng nhằm áp dụng thống nhất và phù hợp các quy định này;

(6) Xét thấy rằng cần phải quy định rõ ràng và chi tiết về cách tính giá trị thông thường, trong đó, đặc biệt cần nêu rõ, giá trị thông thường trong mọi trường hợp đều phải căn cứ theo hành vi bán hàng có tính tiêu biểu, thực hiện tại nước xuất khẩu trong các điều kiện thương mại thông thường; rằng cần phải định nghĩa về hành vi bán lỗ vốn và bán tống hàng hóa trên thị trường nội địa của nước xuất khẩu và quy định hàng bán lỗ vốn hoặc bán tống không được sử dụng để tính giá trị thông thường cấu thành hoặc không được bán sang một nước thứ ba; rằng cũng cần phải xác định chính xác các chi phí, kể cả các chi phí trong thời kỳ khởi nghiệp của doanh nghiệp cũng như đưa ra định nghĩa về "tình hình khởi nghiệp", "thời kỳ khởi nghiệp" và cách tính chi phí trong thời kỳ khởi nghiệp; ngoài ra, để tính giá trị thông thường, cũng cần phải nêu rõ phương pháp tính chi phí bán hàng, chi phí hành chính, các chi phí quản lý chung khác và biên độ lợi nhuận trong giá trị thông thường;

(7) Xét thấy rằng cần phải quy định về thủ tục lựa chọn nước thứ ba có nền kinh tế thị trường phù hợp để làm nước đối chứng nhằm xác định giá trị thông thường đối với các nước có nền kinh tế phi thị trường. Trong trường hợp không chọn được nước thứ ba phù hợp, cần thiết phải có quy định cho phép tính giá trị thông thường theo các căn cứ hợp lý khác;

(8) Xét thấy rằng cần phải xác định giá xuất khẩu và quy định về những điều chỉnh cần thiết nếu xét thấy cần phải xác định lại giá xuất khẩu trên cơ sở căn cứ vào giá bán lại hàng hóa nhập khẩu cho người mua độc lập đầu tiên trên thị trường tự do.

TRA CỨU ĐẦY ĐỦ VĂN BẢN TẠI ĐÂY

SOURCE: NHÀ PHÁP LUẬT VIỆT – PHÁP

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d