TS. VÕ SỸ MẠNH – Đại học Ngoại thương Hà Nội
Đặt vấn đề
Ngày 24/11/2015, Bộ luật Dân sự đã được thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2017. So với Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 có rất nhiều điểm mới – những sửa đổi, bổ sung cơ bản và toàn diện nội dung của Bộ luật Dân sự năm 2005. Việc sửa đổi, bổ sung lần này là nhằm xây dựng Bộ luật Dân sự thực sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội được hình thành trên nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng và tự chịu trách nhiệm giữa các bên tham gia; ghi nhận và bảo vệ tốt hơn các quyền của cá nhân, pháp nhân trong giao lưu dân sự; góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định môi trường pháp lý cho sự phát triển kinh tế – xã hội sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành.
Về bố cục, Bộ luật Dân sự năm 2005 có 7 phần với 777 Điều còn Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ còn 6 phần, 689 Điều. Về nội dung, có thể nói không có nội dung nào của Bộ luật Dân sự năm 2005 không có sự chỉnh sửa, bổ sung. Một trong những điểm mới quan trọng của Bộ luật Dân sự năm 2005 so với Bộ luật Dân sự năm 2015 là quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng. Trên cơ sở hệ thống hóa pháp luật Việt Nam điều chỉnh hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng, bài viết dưới đây đề cập mang tính gợi mở một số vấn đề liên quan đến quy định mới về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2015.
1. Điều chỉnh hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng trong Pháp luật Việt Nam
Khi hợp đồng được thiết lập hợp pháp thì có hiệu lực như pháp luật đối với các bên kể từ thời điểm giao kết, các bên phải tuân thủ hợp đồng mà không được tự ý sửa đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình thực hiện hợp đồng luôn tiềm ẩn những nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến cho các nghĩa vụ hợp đồng không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng, đầy đủ như cam kết. Khi đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên trong quan hệ, pháp luật trao cho họ quyền được tuyên bố hủy bỏ hợp đồng.
Hợp đồng bị hủy bỏ là hợp đồng đã được giao kết nhưng bị coi là không còn hiệu lực thực hiện nữa. Nói cách khác, sự hủy bỏ hợp đồng chỉ là một thể thức bồi thường bằng hiện vật các thiệt hại gây ra bởi không thi hành nghĩa vụ. Hủy bỏ hợp đồng là triệt tiêu quá khứ cũng như tương lai của hợp đồng đã được giao kết hợp pháp và lý do triệt tiêu hợp đồng ở đây không tồn tại vào thời điểm giao kết mà vào thời điểm thực hiện hợp đồng”.
Pháp luật thực định của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam cũng như một số văn bản quốc tế như Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (tiếng Anh là United Nations Convention on Contract for International Sale of Goods – CISG), Những nguyên tắc hợp đồng thương mại quốc tế (tiếng Anh là Principles of International Commercial Contract -PICC) hay Những nguyên tắc pháp luật hợp đồng Châu Âu (tiếng Anh là Principle of European Contract Law – PECL) đều không quy định hủy bỏ hợp đồng là gì mà thay vào đó quy định điều kiện, căn cứ hủy bỏ hợp đồng; trình tự, thủ tục hủy bỏ hợp đồng và đáng chú ý là quy định về hậu quả của việc hủy bỏ hợp đồng.
…
TRA CỨU BÀI VIẾT ĐẦY ĐỦ TẠI ĐÂY
SOURCE: TẠP CHÍ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI SỐ 86/2017
Trích dẫn từ: http://tapchiktdn.ftu.edu.vn
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: 1. SỬA ĐỔI BLDS 2005, Hợp đồng |
Leave a Reply