admin@phapluatdansu.edu.vn

Những vấn đề phát triển ở Việt Nam – GIẢI PHÁP

GS.TSKH. VÕ ĐẠI LƯỢC– Tổng Giám đốc Trung tâm Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương Việt Nam

Từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã thực sự bước vào thời kỳ phát triển trên nhiều mặt với những thành tựu nổi bật về tăng trưởng cao, về xoá đói giảm nghèo, về phát triển con người, về hội nhập quốc tế… Tuy nhiên Việt Nam cũng đang phải đối diện với không ít vấn đề bức xúc, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu khách quan khoa học, đề có thể có những giải pháp phù hợp. Những vấn đề đó có thể là tăng trưởng và công bằng xã hội, phát triển thị trường, hội nhập quốc tế, hoàn thiện hệ thống thể chế, cải cách chính phủ và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Bài này sẽ không đi sâu phân tích cụ thể từng vấn đề trên, mà chỉ đi sâu vào những khía cạnh bức xúc của một số vấn đề, từ đó nêu ra một số giải pháp.

I. Về tăng trưởng và công bằng xã hội

Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng kinh tế khá cao 7 – 8% một năm, đó là một thực tế. Nhưng vấn đề đặt ra là liệu Việt Nam có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn không, và tăng trưởng cao đó có đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội không?

Có nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam có nhiều tiềm năng có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao hơn, vì Việt Nam vẫn còn là một nước kém phát triển, những khả năng phát triển theo chiều rộng còn rất lớn, tiềm năng lao động tiền công thấp còn lớn, còn điều kiện sử dụng các nguồn vốn trong và ngoài nước có hiệu quả, khả năng khai mở thị trường trong và ngoài nước còn nhiều, còn nhiều khả năng ứng dụng công nghệ nhập khẩu có hiệu quả, các tài nguyên thiên nhiên chưa khai thác còn lớn v.v..

Về tiềm năng lao động. Năm  2002 Việt Nam  có 38,75 triệu lao động chiếm 48,3% dân số, trong đó 66% lao động trong nông lâm nghiệp và thuỷ sản, số người thất nghiệp ở các thành phố khoảng 6%, thời gian nhàn rỗi của lao động nông thôn hiện khoảng 25%. Việt Nam về cơ bản đã xoá nạn mù chữ, đang phấn đấu phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Tiền lương của lao động Việt Nam nói chung còn thấp hơn các quốc gia trong khu vực. Nhược điểm căn bản của lao động Việt Nam là thiếu đào tạo về chuyên môn kỹ thuật, số lao động không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tới 84,2% tổng số lao động (2002). Số lượng lao động Việt Nam đông đảo có văn hoá, nếu được đào tạo chuyên môn kỹ thuật tốt, đó sẽ là một nguồn lực phát triển rất cơ bản của Việt Nam.

Về nguồn vốn. Nguồn vốn tiền tiết kiệm của dân cư trên GDP của Việt Nam vào loại cao khoảng 30% GDP. Các loại thu nhập ngoại tệ do xuất khẩu lao động, thu từ du lịch, kiều hối… hàng năm ước tính khoảng 6-7 tỷ USD. Nguồn vốn ODA hàng năm được các nhà tài trợ cam kết khoảng trên  2 tỷ USD. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được cam kết trong những năm 1996, 1997 đã tới 6-7 tỷ USD, tuy trong những năm gần đây đã giảm mạnh, năm 2004 đã tăng lên hơn 4 tỷ USD. Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài Việt Nam chưa có chủ trương tiếp nhận rõ rệt. Nếu Việt Nam có cơ chế sử dụng vốn có hiệu quả, khả năng gia tăng nguồn vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam còn lớn.

Về thị trường. Việt Nam về cơ bản mới có thị trường hàng hoá, còn thị trường dịch vụ, thị trường tiền tệ, vốn, bất động sản thực sự mới chỉ manh nha. Một khi những thị trường này phát triển, thì đó là một nguồn lực hết sức to lớn cho sự phát triển.Việt Nam chưa là thành viên của WTO, do vậy cánh cửa của các thị trường của các quốc gia thành viên WTO chưa thực sự được mở, Việt Nam cũng chưa ký kết các Hiệp nghị thương mại tự do song phương với những trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Việt Nam gia nhập WTO ký kết các Hiệp nghị thương mại tự do song phương với các nền kinh tế lớn, thì đó sẽ là một cơ hội mở rộng thị trường bên ngoài vô cùng to lớn.

Về công nghệ. Trình độ công nghệ của Việt Nam hiện là thấp xa so với những nước tiên tiến. Một nước đi sau sẽ có những lợi thế do nhập khẩu công nghệ mang lại. Cho đến nay Việt Nam mới chủ yếu nhập khẩu máy móc thiết bị, chưa nhập các bằng sáng chế, phát minh, các ý tưởng công nghệ… do vậy tiềm năng này còn rất lớn.

Về tài nguyên. Các nguồn tài nguyên của Việt Nam  như dầu khí, bô- xít, đất hiếm, đặc biệt là vị trí địa lý thuận lợi chưa được thăm dò khai thác bao nhiêu. Đó là một nguồn lực quan trọng cho phát triển.

Về thể chế. Có thể nói nguồn lực về thể chế ở Việt Nam hiện còn rất lớn, vì các thể chế thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hoặc còn chưa hoàn thiện, hoặc thiếu vắng.  Chỉ cần Việt Nam xem xét, ban hành các thể chế pháp luật phù hợp với các thông lệ quốc tế hiện nay cũng đã đủ tạo ra một hành lang phát triển thông thoáng cho nền kinh tế Việt Nam.

Ngoài những nguồn lực trên, còn có thể có những nguồn lực khác như truyền thống dân tộc, văn hoá dân tộc… Nếu biết phát huy sử dụng, cũng sẽ là một nguồn lực to lớn.

Thực tế khu vực cũng cho thấy những quốc gia láng giềng của Việt Nam như Trung Quốc đã có tốc độ tăng trưởng cao 9- 10% năm kéo dài trong nhiều năm, một số tỉnh ven biển của Trung Quốc như Thượng Hải, Quảng Châu, Phúc Kiến… có quy mô lớn bằng cả Việt Nam cũng đã có tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm  trên 10% kéo dài vài chục năm nay. Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã có tốc độ tăng trưởng “thần kỳ”. Việt Nam hoàn toàn có đủ những nguồn lực cho một sự tăng trưởng và phát triển với nhịp độ cao, vấn đề là cần có những chính sách, thể chế, chiến lược phát triển thích hợp để tận dụng có hiệu quả các nguồn trên.

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là một vấn đề bức xúc đối với mọi quốc gia, cũng như đối với Việt Nam.

Mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ thập kỷ 90 đến nay là khá cao chỉ sau Trung Quốc. Điều này đã là một thực tế, được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Tăng trưởng kinh tế cao đã mang lại nhiều hệ quả tích cực về xã hội: gia tăng các khoản thu của chính phủ đặc biệt là thuế, phí và lệ phí, mức tăng này hàng năm từ 2000 đến 2003 đạt khoảng 17,5% đến 20,7%- đây là cơ sở quan trọng để chính phủ có thể gia tăng chi cho phát triển giáo dục, y tế, các chương trình an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo,[1] đảm bảo việc làm cho những người đến tuổi lao động, tỷ lệ nhóm người này ở Việt Nam hàng năm cao nhất thế giới,[2] theo đánh giá của các nhà tài trợ tại Hội nghị Tư vấn  các nhà tài trợ Việt Nam ở Hà Nội, tháng 12/2003 tỷ lệ này là 85% đối với nam và 83% đối với nữ (2002).

Sự tăng trưởng kinh tế cao ở Việt Nam đã đi liền với sự gia tăng chênh lệch về phát triển và bất bình đẳng.

Thứ nhất, việc gia tăng sự chênh lệch về phát triển liệu có là cần thiết? Đối với Việt Nam, một quốc gia đang chuyển từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, thì sự gia tăng chênh lệch phát triển là cần thiết, xét về mặt tạo động lực phát triển, tạo lập cơ chế cạnh tranh… Không ít người ở Việt Nam hiện đang phê phán mạnh mẽ sự gia tăng chênh lệch phát triển, xem đó như là mặt trái của kinh tế thị trường, và yêu cầu phải hạn chế, phải thu hẹp sự chênh lệch phát triển này. Người ta có thể đưa ra câu hỏi Trung Quốc đã có cả chiến lược phát triển miền Tây để giảm bớt sự chênh lệch này, tại sao Việt Nam chưa có? Nước ta đang chuyển từ cơ chế phân phối bình quân – cả nước nghèo như nhau, sang cơ chế phân phối theo thị trường – tạo ra sự chênh lệch phát triển – đây là một trong những điểm mấu chốt của sự tăng trưởng và phát triển của nước ta. Nếu thu hẹp, hay xoá bỏ sự chênh lệch này, trở về cơ chế phân phối bình quân, thì xem như nước ta sẽ không có đổi mới. Vấn đề chỉ là ở chỗ mức chênh lệch phát triển ở nước ta hiện đã quá cao chưa, đã dẫn tới những bất ổn xã hội chưa? So sánh với các quốc gia trong khu vực và thế giới có cùng trình độ phát triển như nước ta, thì mức độ chênh lệch phát triển ở nước ta còn thấp hơn, và điều quan trọng là chưa dẫn tới những vấn đề bất ổn xã hội nghiêm trọng. Do vậy, chưa nên đặt vấn đề phải hạn chế hay thu hẹp, và phải xem đó là một kết quả của quá trình đổi mới, mặt tích cực của kinh tế thị trường.

Thứ hai, phải có những biện pháp loại bỏ  những kẻ làm giàu bất hợp pháp, tham nhũng, buôn lậu… Trong số dân cư giàu có lên nhanh chóng nhờ quá trình đổi mới, đa số họ đã làm ăn theo pháp luật, có các nguồn thu hợp pháp. Phải ủng hộ, khuyến khích, động viên tầng lớp giàu có chân chính này. Sự giàu có của họ sẽ góp phần làm gia tăng sự giàu có của đất nước. Tuy nhiên trong số đó cũng có không ít kẻ đã giàu có lên nhờ tham nhũng, buôn lậu, làm  ăn bất hợp pháp, phải có những biện pháp răn đe, ngăn chặn và trừng trị thích đáng. Giải pháp trước hết là phải đổi mới hoàn thiện thể chế và chính sách, giảm bớt và loại bỏ những khe hở cho tham nhũng và buôn lậu. Sau đó mới đến những công tác giáo dục ý thức tôn trọng luật pháp, giám sát, phát hiện và trừng trị những kẻ làm trái pháp luật.

Thứ ba, thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo. Xây dựng một xã hội có nhiều người giàu, không có người nghèo đói, hoặc có người nghèo đói nhưng được xã hội trợ giúp, quan tâm- đó là một định hướng mà Việt Nam lựa chọn. Chương trình xoá đói giảm nghèo đã được Chính phủ Việt Nam thực hiện có kết quả trong nhiều năm nay là một thể hiện rõ rệt quyết tâm đó, những kết quả thu được là rõ rệt – đã giảm được một nửa số người nghèo trong vòng 10 năm. Có thể nói là chương trình xoá đói giảm nghèo theo nghĩa rộng nhất đã bao gồm toàn bộ chương trình phát triển của Việt Nam, nhưng theo nghĩa hẹp nó chỉ tập trung vào những trợ giúp cho các vùng, các tầng lớp nghèo đói. Tuy nhiên có thể còn phải có những cố gắng tiếp tục hoàn thiện chương trình này theo hướng – xây dựng một hệ thống an sinh xã hội hoàn thiện hơn, đảm bảo an toàn hơn cho những người gặp rủi ro, cơ lỡ, hỗ trợ tốt hơn cho những vùng nghèo.

II. Phát triển thị trường

Phát triển kinh tế thị trường là một trong những động lực quan trọng nhất cho sự tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ thập kỷ 90 đến nay, và đây cũng là lĩnh vực Việt Nam tiến hành những đổi mới sâu rộng nhất và đạt nhiều hành tựu to lớn nhất, và đây cũng là lĩnh vực mà lúc nào cũng có nhiều vấn đề phức tạp nhất, gây tranh cãi nhiều nhất, ít sự thống nhất ý kiến nhất. Sự phát triển kinh tế thị trường đã bao gồm hầu như tất cả các vấn đề kinh tế từ giá cả, tỷ giá, lãi suất đến các thành phần kinh tế, đến các doanh nghiệp, đến cả hội nhập quốc tế, ngân hàng tài chính và cả các lĩnh vực dịch vụ… Có những vấn đề như “khoán hộ” trong nông nghiệp người ta đã tưởng nó không cần đến giải pháp thị trường, đã quy cho nó vai trò như một giải pháp đột phá quan trọng nhất cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam, nhưng thực ra nếu tách “khoán hộ” khỏi sự phát triển của thị trường, khỏi sự tự do hoá thu mua, phân phối lương thực, khỏi sự bãi bỏ chế độ độc quyền kinh doanh lương thực, vật tư nông nhiệp của Nhà nước… thì chế độ “khoán hộ” sẽ không thể có tác dụng gì hoặc chỉ có tác dụng hạn chế. Thực tế cho thấy, chế độ “khoán hộ” ở Việt Nam dã được cho phép chính thức áp dụng từ đầu những năm 80, nhưng mãi đến 1988, Việt Nam hàng năm vẫn phải nhập khẩu lương thực hàng trăm ngàn tấn. Việt Nam vẫn luôn thiếu nông phẩm từ hạt muối, mớ rau. Chỉ từ năm 1989, cơ chế thị trường bắt đầu được áp dụng phổ biến ở Việt Nam, thì nền kinh tế thiếu nông phẩm mới bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thừa nông phẩm, mới xuất khẩu gạo và các nông phẩm khác.

Những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc xây dựng và phát triển kinh tế thị trường là quá rõ ràng: đã thiết lập được cơ chế thị trường quy định giá cả, tỷ giá, lãi suất; đã hình thành các thị trường cơ bản dù còn sơ khai; các thành phần kinh tế, các chủ doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh đã được khuyến khích phát triển và đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh rộng rãi; hệ thống các luật kinh tế thị trường đã được ban hành tuy còn khiếm khuyết; nền kinh tế đã mở cửa và hội nhập quốc tế v.v. Việt Nam đã chuyển đổi sang kinh tế thị trường không phải với giá phải trả là suy thoái và trì trệ, mà với phần thưởng là liên tục tăng trưởng cao và mức sống của dân cư được cải thiện.

Vấn đề được đặt ra hiện nay là đối với Việt Nam kinh tế thị trường hiện còn có thể mở rộng, phát triển hơn nữa, liệu còn có vai trò là một động lực tăng trưởng và phát triển quan trọng bậc nhất nữa không?

Có thể nói là kinh tế thị trường ở Việt Nam mới hình thành sơ khai đang còn nhiều lãnh địa để phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu:

Về chiều rộng, còn nhiều thị trường chưa được khai mở ở cả trong nước và ngoài nước. Thị trường vốn và bất động sản mới khởi động, đây là hai thị trường cơ bản, nếu được phát triển chúng sẽ tạo ra một dung lượng thị trường lớn hơn thị trường hàng hoá, và tạo ra một động lực phát triển mạnh mẽ hơn thị trường hàng hoá mà Việt Nam có cho đến nay. Thị trường dịch vụ, thị trường công nghệ, thị trường lao động cũng là những thị trường cực kỳ quan trọng và thường có một thị phần rất đáng kể trong mọi nền kinh tế thị trường, thì ở nước ta chúng lại chiếm một thị phần còn quá nhỏ bé và rất kém phát triển, thậm chí còn không ít lĩnh vực dịch vụ còn chưa có thị trường, do ở đó chỉ có các cơ quan nhà nước làm dịch vụ bao cấp. Nếu tất cả những thị trường này được khai mở và phát triển, chắc chắn thị trường nội địa của nước ta sẽ được mở rộng lớn hơn hiện nay. Thị trường bên ngoài của Việt Nam tuy đã được mở rộng, nhưng thực tế hàng rào bảo hộ của các thị trường này đối với hàng hoá Việt Nam hiện còn khá cao, nên hàng hoá Việt Nam rất khó thâm nhập vào thị trường này. Một ví dụ có thể thấy rõ ràng đó là thị trường Mỹ từ khi Hiệp nghị thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực, hàng rào bảo hộ của Mỹ giảm xuống, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ đã tăng vọt lên hơn 4 lần trong vòng 2 năm (2001-2003). Thị trường bên ngoài này còn rộng mênh mông hơn thị trường trong nước nhiều lần. Có người lo ngại là dù hàng rào bảo hộ của các thị trường bên ngoài được giảm thiểu, thì Việt Nam cũng chưa thể sản xuất được hàng hoá gì xuất khẩu vào các thị trường này. Thực tế cho thấy mối lo ngại đó là không đúng. Vì khi có thị trường, các nhà đầu tư trong và ngoài nước sẽ tìm mọi cách thiết lập các cơ sở sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường đó. Khi Trung Quốc gia nhập WTO, các nhà đầu tư bên ngoài đã lập tức đổ tiền của vào  Trung Quốc, thành lập các cơ sở sản xuất xuất khẩu ra các thị trường của các nước thành viên WTO, do vậy FDI vào Trung Quốc đã đạt mức cao nhất thế giới, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc cũng tăng cao nhất thế giới.

Về chiều sâu, Việt Nam còn phải làm nhiều việc trong lĩnh vực phát triển kinh tế thị trường. Có thể nói là, hiện thị trường Việt Nam còn bị Nhà nước can thiệp trực tiếp quá nhiều, thậm chí đã làm thay thị trường trong không ít trường hợp, đặc biệt là trong việc phân bổ các nguồn lực.

Những hạn chế trên đây là một trong những nguyên nhân làm cho Việt Nam đã bị tụt bậc trong thang bậc xếp hạng các quốc gia về năng lực cạnh tranh do tổ chức Diễn đàn kinh tế thế giới thực hiện. Năm 2004 Việt Nam đứng thứ 77 trong số 104 nước, tụt 17 bậc so với năm 2003. Nếu so với năm 1998, mức tụt bậc còn nghiêm trọng hơn, tới 38 bậc, năm 1998 Việt Nam xếp thứ 39.

Những hạn chế trên đây có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân quan trọng có thể kể ra là do những nhận thức về kinh tế thị trường ở Việt Nam còn có những khác biệt xa so với thế giới. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam  được xác định là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khác với các nền kinh tế thị trường hiện đại ở các nước phương Tây trên những phương diện sau đây:

Về chế độ sở hữu, tuy Việt Nam đã thừa nhận mọi thành phần kinh tế đều là những bộ phận quan trọng cấu thành nền kinh tế quốc dân, tồn tại lâu dài và bình đẳng, nhưng vẫn còn tồn tại sự khác biệt giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp khác. Sự khác biệt đã thể hiện trong các chính sách của Nhà nước, và khó tránh khỏi sự phân biệt đối xử. Nhà nước phải ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước đã tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp ngoài nhà nước – một bên có nhiều lợi thế, một bên không có những lợi thế đó. Điều này đã làm méo mó thị trường, giảm thiểu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp ngoài nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực tới khả năng cạnh tranh chung của nền kinh tế và môi trường đầu tư.

Về sự quản lý của Nhà nước, ở Việt Nam vai trò quản lý của Nhà nước được xác định cho đến nay là rất rộng và đang lấn át thị trường trên nhiều lĩnh vực. Tư duy kinh tế kế hoạch vẫn còn rất nặng trong các giới chức do lo ngại cho sự giảm thiểu quyền lực quản lý nhà nước, giảm thiểu chế độ  “xin-cho” hiện có lợi cho họ.

Với sự quản lý nhà nước quá chặt chẽ và chế độ “xin- cho” khá phổ biến hiện nay thì kinh tế thị trường ở Việt Nam phải phát triển trong một khuôn khổ chật hẹp, méo mó và kém lợi thế là điều khó tránh khỏi.

Về tâm lý xã hội, kinh tế thị trường phát triển ở Việt Nam tất nhiên đã bộc lộ cả những tác động tích cực, lẫn những mặt trái của nó. Nhưng điều đáng lưu ý là tâm lý lo ngại những mặt trái của thị trường, quy tất cả hiện tượng tiêu cực của xã hội từ tham nhũng đến xì ke ma tuý… đều do thị trường đẻ ra lại là tâm lý khá phổ biến. Sự lo ngại này đã có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của kinh tế thị trường ở Việt Nam.

III.   Hội nhập kinh tế quốc tế

Kể từ thập kỷ 90 đến nay, Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế: bình thường hoá quan hệ kinh tế với tất cả các nước, với IMF, WB, ADB, gia nhập ASEAN, AFTA, APEC, ký Hiệp nghị thương mại với Mỹ, đang đàm phán gia nhập WTO… những bước tiến này thể hiện thực tế ở chỗ tỷ trọng kim ngạch thương mại so với GDP đã tăng từ dưới 30% thập kỷ 80 lên trên 120% hiện nay, FDI chiếm khoảng 18 – 28% trong tổng đầu tư xã hội, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về cà phê, tiêu, gạo, hạt điều… Tuy nhiên để tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn, Việt Nam phải đối diện và giải quyết không ít vấn đề có liên quan đến cả nhận thức và chính sách.

Trước hết, đó là vấn đề mở cửa thị trường trong nước để khai mở thị trường quốc tế. Hiện Việt Nam đã mở cửa thị trường trong nước, nhưng mức độ bảo  hộ nói chung vẫn còn cao kể cả về danh nghĩa và thực tế, đặc biệt là so với các quốc gia trong khu vực. Năm 2002 mức thuế danh nghĩa của Việt Nam là 15,9% tính bình quân chung, nhưng mức thuế thực tế lại là 54,2%,[3] do có sự chênh lệch về thuế đáng kể trong các ngành công nghiệp, và nhiều chính sách khuyến khích thay thế nhập khẩu. Mức độ mở cửa các ngành kinh tế của Việt Nam nhất là các ngành dịch vụ cho đầu tư nước ngoài nói chung vẫn còn thấp hơn các quốc gia đang phát triển khác trong khu vực. Đây chính là một trở ngại quan trọng khi Việt Nam đàm phán khai mở thị trường bên ngoài, đàm phán gia nhập WTO, vì các bên đối tác đều có hàng rào bảo hộ thấp hơn ta và đòi ta phải hạ thấp hơn hàng rào bảo hộ. Đây cũng là một lý do quan trọng khiến Việt Nam trong nhiều năm liên tục phải nhập siêu, vì hàng rào bảo hộ cao sẽ làm cho chi phí kinh doanh xuất khẩu cao; giảm khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam  trên thị trường thế giới. Đây cũng là một lý do làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, vì chính sách khuyến khích thay thế nhập khẩu đã định hướng các doanh nghiệp trong và ngoài nước kinh doanh hướng nội với thị trường nội địa hạn hẹp, họ khó có khả năng mở rộng thêm đầu tư. Hàng rào bảo hộ cao còn có ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng tới khả năng mở rộng thị trường trong nước, vì hàng rào bảo hộ cao đã làm tăng giá cả hàng hoá nhập khẩu, hạn chế sức mua của dân chúng trong nước.

Tuy nhiên việc hạ thấp hàng rào bảo hộ và việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ lại vấp phải sự phản ứng của các doanh nghiệp kinh doanh hướng nội, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Trên thực tế, sự phản ứng của khu vực doanh nghiệp hướng nội đã làm trì hoãn quá trình hạ thấp hàng rào bảo hộ và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Có thể có hai sự lựa chọn. Thứ nhất, duy trì mức bảo hộ cao với lộ trình kéo dài để chờ các doanh nghiệp nhà nước nâng cao sức cạnh tranh vươn lên đủ sức đua tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Thực ra Việt Nam đã thực hiện phương án này trong suốt quá trình đổi mới, nhưng trên thực tế những doanh nghiệp được bảo hộ kéo dài đã không nâng cao được sức cạnh tranh như mong muốn, mà họ lại luôn luôn đòi hỏi Nhà nước phải bảo hộ kéo dài nữa. Thứ hai, giảm dần mức bảo hộ và rút ngắn lộ trình bảo hộ. Việt Nam cũng đã thực thi phương án này trên một số lĩnh vực như dệt may, bòng đèn, phích nước, bia, bột giặt, nước giải khát v.v… Thực tế cho thấy, chính những ngành không được bảo hộ này đã phải đối mặt với cạnh tranh quốc tế, đã phải tự đổi mới công nghệ, quản lý, tổ chức lao động nâng cao chất lượng lao động v.v… để vươn lên, và hiện đó là những ngành có khả năng cạnh tranh quốc tế cao.

Trong thời gian tới đây, sức ép của hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng gia tăng, Việt Nam buộc phải giảm mạnh hơn hàng rào bảo hộ và rút ngắn hơn lộ trình bảo hộ, và đây chính là con đường chủ động và tích cực của Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, là bước đi chủ động và tích cực để mở cửa thị trường của các quốc gia khác. Ta phải sẵn sàng mở cửa thị trường của mình, thì thiên hạ mới mở cửa thị trường của họ, không có chuyện ta chỉ muốn mở cửa thị trường thiên hạ, còn thị trường của ta lại đóng lại.

Thứ hai, đổi mới các chính sách kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Việt Nam đã thực hiện những đổi mới rất quan trọng theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên hiện vẫn còn không ít vấn đề cần tiếp tục giải quyết như: VNĐ chưa chuyển đổi tự do, tỷ giá do thị trường xác định nhưng còn rất hạn chế, chưa mở cửa tiếp nhận các dòng vốn gián tiếp, mức độ mở cửa khu vực dịch vụ còn quá hạn chế v.v. Những vấn đề này rất quan trọng đối với việc hoàn thiện kinh tế thị trường ở Việt Nam nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng.

Lộ trình chuyển đổi tự do VND hiện chưa được xác định cụ thể. Tuy Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã cho phép chuyển đổi VND trên các tài khoản vãng lai, nhưng phải có điều kiện, chứ chưa phải là tự do. Việt Nam càng hội nhập quốc tế sâu rộng, thì việc chuyển đổi VND tự do là một điều kiện có tính tiên quyết, vì các hoạt động thương mại, đầu tư quốc tế gia tăng đòi hỏi sự trao đổi tiền tệ rộng rãi và tự do. Do vậy Việt Nam cần có một lộ trình cụ thể chuyển đổi tự do VND với một thời hạn phù hợp. Một số người lo ngại, nếu sớm chuyển đổi tự do VND, trong khi Việt Nam chưa có dự trữ ngoại tệ ở mức cần thiết, VN vẫn phải nhập siêu cao, khả năng cạnh tranh yếu kém… thì có thể sẽ có những rủi ro về tiền tệ. Thực tế thế giới cho thấy có không ít quốc gia có dự trữ ngoại tệ không lớn, bị nhập siêu, nhưng họ vẫn thực hiện chế độ chuyển đổi tự do đồng tiền của họ. Nhưng cũng có những nước luôn xuất siêu, có dự trữ ngoại tệ lớn, như Trung Quốc, vẫn thực hiện chế độ chuyển đổi tiền tệ một cách hạn chế (mới hạn chế trên các tài khoản vãng lai). Vậy điều kiện gì có thể cho phép chuyển đổi tự do VND. Đó chính là sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước phù hợp với các điều kiện cụ thể. Chẳng hạn, khi các dòng ngoại tệ đổ vào lớn hơn các dòng ngoại tệ rút ra, thì chính phủ có thể nới lỏng kiểm soát, cho phép hoàn toàn tự do chuyển đổi. Nhưng khi các dòng ngoại tệ rút ra lớn hơn đổ vào, thì Nhà nước cần có những biện pháp điều tiết như: đánh thuế việc chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ đưa ra khỏi đất nước, quy định một số điều kiện để hạn chế việc rút chạy dòng ngoại tệ ra khỏi đất nước v.v…Chế độ điều tiết và kiểm soát phù hợp của Nhà nước là điều kiện quan trọng nhất đảm bảo việc chuyển đổi tự do VND không mang lại những rủi ro.

Tự do hoá tỷ giá cũng cần có một lộ trình cụ thể. Tỷ giá giữa VND và các ngoại tệ ở Việt Nam hiện đã có tính thị trường, tuy còn hạn chế: do biên độ giao động của tỷ giá còn hẹp, các ngân hàng thương mại tham gia thoả thuận mức tỷ giá đến nay phần lớn vẫn là các ngân hàng thương mại quốc doanh…Từ 1996 đến nay VND đã được điều chỉnh theo hướng hạ giá VND liên tục, tuy nhiên VND vẫn có những biểu hiện được đánh giá cao hơn thực tế. Những biểu hiện này là: nhập siêu của Việt Nam  quá cao, năm 2004 đã đạt tới 5,5 tỷ USD; mức mất giá VND còn quá thấp so với mức lạm phát (mức mất giá VND năm 2004 dưới 1% trong khi lạm phát dưới 9,5%); lãi suất VND cao hơn lãi suất USD… Nếu mở rộng tự do hoá tỷ giá, nghĩa là mở rộng biên độ giao động và tiến tới bỏ biên độ này, đồng thời mở rộng các thành phần tham gia vào việc xác định tỷ giá, thì tính thị trường của tỷ giá sẽ cao hơn. Nhưng sẽ có lo ngại VND sẽ bị hạ giá quá mức, gây ra những rối loạn về tiền tệ. Thực tế đã không phải như vậy, Trung Quốc năm 1994 đã hạ giá đồng nguyên tới 40%, nhưng đã không gây ra rối loạn gì vì Trung Quốc đã chủ động hạ giá. Ở một số nước Châu Á, đồng nội tệ đã bị phá giá vào năm 1997 là do chính sách tiền tệ, tài chính sai lầm của các quốc gia này như: cố định tỷ giá, đầu tư sai không hiệu quả, chậm tiến hành cải cách cơ cấu…, chứ không phải là do tự do hoá tỷ giá. Hiện nay tất cả các nước phát triển đã thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi, trên 55% các quốc gia đang phát triển cũng đã đi theo hướng này. Đương nhiên ở các quốc gia thực hiện tự do hoá tỷ giá, Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết. Từ năm 2002 đến nay đồng USD luôn bị hạ giá, nhiều quốc gia châu Á đã hạ giá đồng tiền của mình tương ứng để đảm bảo xuất khẩu thuận lợi. Đi theo hướng này Nhật đã bỏ ra hàng trăm  tỷ Yên trong mấy năm gần đây mua USD để duy trì đồng Yên không bị lên giá quá mức. Chính phủ Mỹ đã thực thi chính sách hạ giá USD liên tục để giảm bớt thâm hụt cán cân thương mại. Vậy là chính sách tự do hoá tỷ giá luôn đi theo chính sách điều tiết, quản lý của Nhà nước để đảm bảo duy trì một mức tỷ giá có lợi cho tăng trưởng và phát triển. Việt Nam cần có lộ trình tự do hoá tỷ giá theo hướng này và lộ trình này không thể kéo quá dài.

Các dòng vốn gián tiếp nước ngoài (FPI) hiện chưa được Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích thu hút. Cuộc tháo chạy của các dòng vốn gián tiếp nước ngoài khỏi một số quốc gia Châu Á năm 1997 đã gây ra cuộc khủng hoảng tài chính ở một số nước Châu Á, và đã để lại những ấn tượng rất không tốt. Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam đã rất cảnh giác với các dòng vốn này, tới mức thi hành chính sách hầu như đóng cửa đối với các dòng vốn này. Thực ra sự vận động của các dòng vốn gián tiếp từ quốc gia này sang quốc gia khác là một sự vận động bình thường. Ở đâu có mức sinh lợi lớn hơn, thì nguồn vốn này đổ đến và ngược lại. Có một đặc điểm rất nổi bật của dòng vốn này là chúng đổ vào một quốc gia có thể rất nhanh, và khi cần phải rút chạy cũng rất nhanh. Do vậy sự vận động của các dòng vốn này trở thành một tín hiệu nhanh nhạy cho giới đầu tư và kinh doanh nhận biết được đâu là nơi đầu tư có lợi cần đến, đâu là nơi bất lợi phải tránh. Nếu một quốc gia đóng cửa đối với những dòng vốn này, có nghĩa là cắt bỏ tín hiệu phản ánh tình hình biến động của môi trường đầu tư, làm cho các nhà đầu tư và kinh doanh nước ngoài mất phương hướng. Đây là một lý do rất quan trọng làm cho những nước đóng cửa đối với dòng vốn gián tiếp, sẽ kém hấp dẫn đầu tư hơn các quốc gia mở cửa rộng rãi cho các dòng vốn này.

Trước cuộc khủng hoảng tiền tệ, tài chính 1997, nhiều nước Đông Á đều đã mở cửa đón nhận dòng vốn gián tiếp nước ngoài, ở Malaixia vốn gián tiếp nước ngoài năm 1993 đã chiếm tới 15,5% GDP, năm 1995 là năm tiếp nhận vốn gián tiếp khá thấp cũng tới 2,4% GDP, ở Trung Quốc vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài năm 1997 đã chiếm tới 0,9% GDP, và những năm trước đó luôn ở mức 0,1-0,6% GDP.  Ở Thái Lan, vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài năm 1997 chiếm 3% GDP, những năm trước đó luôn ở mức 2-3% GDP. Từ sau năm 1997 ở tất cả các quốc gia này FPI đều giảm, tuy nhiên Trung Quốc vẫn luôn duy trì FPI ở mức 0,1% GDP. Từ năm 1999 Malaixia đã lại thu hút FPI ở mức 0,4% GDP sau 2 năm giảm . Vây là sau cơn choáng váng do cuộc khủng hoảng 1997 gây ra, các nước châu Á lại thấy sự cần thiết của dòng vốn FPI, và trở lại thi hành chính sách thu hút FPI với sự thận trọng và các biện pháp điều tiết cần thiết hoặc là trực tiếp, hoặc gián tiếp. Những biện pháp chủ yếu bao gồm : mua bán các tài sản ngoại tệ và nội tệ; điều chỉnh tỷ giá; thắt chặt hoặc nới lỏng chính sách tài chính; kiểm soát vốn bằng các biện pháp cấp phép đầu tư gián tiếp, hạn chế ngân hàng vay nợ nước ngoài, hạn chế người nước ngoài rút vốn; điều tiết và giám sát thận trọng đối với các thể chế tài chính nội địa; thiết lập các cơ sở hạ tầng cơ bản của thị trường tài chính.

Thực hiện các biện pháp kiểm soát FPI trên đây đã giúp các nước đang phát triển châu Á có thể hạn chế được những tác động tiêu cực của các  dòng vốn FPI và họ đã có thể an tâm hơn thu hút các dòng vốn này.

Việt Nam hiện chưa có luật điều tiết các dòng vốn FPI. Luật đầu tư nước ngoài hiện có ở Việt Nam chỉ có tác dụng điều tiết các dòng vốn đầu tư trực tiếp. Do vậy cần sớm soạn thảo và ban hành một khuôn khổ pháp lý phù hợp với các dòng vốn FPI, có thể theo phương án mở rộng Luật đầu tư nước ngoài – thêm phần cho đầu tư gián tiếp.

Mức độ mở cửa khu vực dịch vụ của Việt Nam hiện còn quá hạn chế. Thị trường dịch vụ ở Việt Nam nói chung còn kém phát triển, tốc độ tăng trưởng thấp và trong nhiều lĩnh vực hầu như chỉ do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền kinh doanh với mức độ mở cửa hạn chế. Khu vực dịch vụ chiếm vào khoảng 40% GDP với những hạn chế trên đây đã tác động rất tiêu cực tới sự tăng trưởng và phát triển ở Việt Nam. Ở đây có những vấn đề về nhận thức cũng như về thực tế cần được xem xét và cần có những giải pháp phù hợp với Việt Nam và thông lệ quốc tế.

Thứ nhất, các lĩnh vực dịch vụ của Việt Nam còn khác với thông lệ quốc tế. Theo các tài liệu thống kê hiện nay, Việt Nam không xếp các lĩnh vực xây dựng, hành chính công và quốc phòng vào khu vực dịch vụ, mà gắn xây dựng với khu vực công nghiệp và loại hành chính công và quốc phòng khỏi dịch vụ. Vấn đề đặt ra là liệu Việt Nam có nên theo thông lệ quốc tế xếp các lĩnh vực xây dựng, hành chính công và quốc phòng vào khu vực dịch vụ không? Theo chúng tôi, có thể trước mắt Việt Nam nên xếp lĩnh vực xây dựng, hành chính công vào khu vực dịch vụ. Lý do đơn giản là về mặt kỹ thuật thống kê Việt Nam không nên khác với các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới, Tổ chức thương mại thế giới.. Vì sự khác biệt về thống kê, sẽ làm cho những thông tin kinh tế  Việt Nam khác với các quốc gia khác, gây khó cho việc nghiên cứu tìm hiểu về kinh tế Việt Nam.

Thứ hai, tình trạng độc quyền kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước trong khu vực dịch vụ hiện là khá phổ biến. Do vậy giá cả hình thành trong khu vực dịch vụ, phần lớn là những giá cả độc quyền, hoặc do các doanh nghiệp nhà nước độc quyền chi phối, những giá cả này khá cao so với giá cả quốc tế và khu vực, đã làm tăng chi phí đầu vào của mọi doanh nghiệp sử dụng dịch vụ. Hơn nữa tình trạng độc quyền kinh doanh dịch vụ còn làm cho chất lượng của các hoạt động dịch vụ suy giảm. Vấn đề trước hết cần được tính tới là giảm bớt và hạn chế tình trạng độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh dịch vụ, cho phép các doanh nghiệp tư nhân trong nước được quyền kinh doanh các lĩnh vực dịch vụ. Đây là một điều kiện quan trọng để có thể mở cửa lĩnh vực dịch vụ.

Thứ ba, các lĩnh vực dịch vụ ở Việt Nam được mở cửa rất hạn chế, không ít lĩnh vực hiện còn đóng cửa. Về thương mại,Việt Nam đã cho công ty nước ngoài mở các siêu thị, nhưng hiện còn rất ít. Kinh doanh xuất nhập khẩu là lĩnh vực hầu như chưa cho phép nước ngoài hoạt động, mà các công ty nước ngoài chỉ được phép xuất nhập khẩu những mặt hàng họ đăng ký sản xuất. Các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, lữ hành quốc tế, vận tải biển, tư vấn, giáo dục, y tế v.v.  hầu như còn mở cửa rất hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho lĩnh vực dịch vụ của nước ta phát triển yếu kém và hiện còn khá lạc hậu. Có không ít người cho rằng phải chờ các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam phát triển đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, khi đó mới mở cửa lĩnh vực dịch vụ. Đây là điều khó có thể xảy ra. Trên thực tế càng bảo hộ, càng đóng cửa, các doanh nghiệp dịch vụ càng không chịu đổi mới vươn lên, và càng không thể cạnh tranh với bên ngoài. Muốn các doanh nghiệp dịch vụ Việt Nam đổi mới, vươn lên, phải mạnh dạn mở cửa, giảm bảo hộ bao cấp, tạo ra sức ép cạnh tranh buộc các doanh nghiệp này phải phát triển. Đương nhiên cần có một lộ trình mở cửa phù hợp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này đổi mới, tránh tình trạng hỗn loạn. Song lộ trình mở cửa này không thể quá dài. Cần thiết lập cơ chế quản lý, điều tiết của Nhà nước cả về luật pháp và các cơ quan kiểm soát, để đảm bảo một môi trường cạnh tranh công bằng và bình đẳng, các doanh nghiệp nhà nước phát triển cùng với các doanh nghiệp nước ngoài.

IV.  Hoàn thiện thể chế là một nguồn lực phát triển, đặc biệt là đối với các nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam

Việt Nam đang chuyển từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế, do vậy yêu cầu đổi mới, thiết lập và hoàn thiện các thể chế kinh tế có vai trò hết sức quan trọng. Việt Nam đã sửa đổi Hiến pháp, đã ban hành nhiều đạo luật từ các bộ Luật dân sự, đến các Luật thương mại, Ngân hàng, đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp… Nhưng cho đến nay hệ thống Luật kinh tế của Việt Nam theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vẫn còn có những khiếm khuyết: Thiếu không ít Luật quan trọng như: luật về thị trường chứng khoán, luật về thị trường bất động sản…, nhiều luật tuy đã ban hành nhưng so với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn nhiều điều khoản bất cập cần sửa đổi. Đồng thời bộ máy thực thi luật pháp, và giám sát thực thi luật pháp ở Việt Nam còn nhiều yếu kém, do vậy tuy có luật kinh tế nhưng hiệu lực của luật không cao. Phần này chỉ đề cập với việc hoàn thiện thể chế, luật pháp ở Việt Nam.

Trước hết, công tác hoàn thiện thể chế phải theo hướng đổi mới tư duy kinh tế trên cơ sở các nguyên tắc của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Những đạo luật nào được soạn thảo theo đúng các nguyên tắc này, thì chúng đã đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả rõ rệt, chẳng hạn như: Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài.. Nhưng có không ít đạo luật đã phát huy tác dụng rất yếu, như luật phá sản từ khi ban hành đến nay đã có rất ít doanh nghiệp phá sản theo luật; Luật đất đai đã được sửa nhiều lần, nhưng thị trường đất đai vẫn chưa thể phát triển vận hành theo luật… Vậy những nguyên tắc của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có thể lấy gì làm chuẩn? Có thể nói là các cam kết quốc tế song phương và đa phương của Việt Nam với các đối tác nước ngoài có thể được xem là những chuẩn mực thể hiện các nguyên tắc của thị trường và hội nhập quốc tế. Các luật kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường đã phát triển và hoàn thiện cũng là những căn cứ hết sức quan trọng để ta có thể tham khảo. Những điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể của nước ta cũng là một chuẩn mực để xem xét và xây dựng các điều luật cho phù hợp. Không ít luật và các chế định của Việt Nam tuy đã được ban hành, nhưng nội dung của chúng vẫn chứa đựng những yếu tố của kinh tế kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp. Chẳng hạn, Luật đất đai mới ban hành đã có nhiều sửa đổi, nhưng giá đất vẫn do nhà nước định dù có sát giá thị trường, quy định này đã không phù hợp với nguyên tắc của thị trường. Do vậy việc sửa đổi các thể chế phù hợp với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế phải là việc làm thường xuyên.

Thứ hai, hoàn thiện hệ thống luật pháp theo những cam kết quốc tế song phương và đa phương, đặc biệt là những cam kết với WTO.

Những cam kết quốc tế song phương và đa phương khi đã được quốc hội Việt Nam thông qua, sẽ là luật pháp Việt Nam, tất cả các Luật pháp khác phải phục tùng những cam kết luật pháp này. Có thể nói, trong tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ ngày càng có nhiều cam kết song phương và đa phương hơn, do vậy ngay từ bây giờ Việt Nam đã phải chuẩn bị một chương trình hoàn thiện hệ thống pháp luật có tính dự báo tới những cam kết quốc tế sẽ ký như với WTO, hay những cam kết của các hiệp nghị thương mại tự do song phương và khu vực khác. Trung Quốc phải thực hiện một chương trình hoàn thiện hệ thống luật pháp theo những cam kết với WTO trong 3 năm, đã phải huỷ bỏ và thanh lý gần 3000 văn kiện mang tính pháp quy ở Trung ương và hơn 200.000 quy định, pháp quy, mang tính địa phương. Chương trình sửa đổi và ban hành pháp luật mới của Việt Nam hiện là khá đồ sộ, nhưng có thể sẽ chưa đáp ứng được  yêu cầu hội nhập quốc tế nếu chương trình này không có tính dự báo, không tính tới những cam kết mà Việt Nam sẽ ký kết. Mặt khác cách làm luật của Việt Nam hiện nay (từ nghiên cứu, biên soạn, thông qua) có thể nói là đã bất cập với yêu cầu. Cần có sự đổi mới cách làm luật hiện nay theo hướng chuyên môn hơn, và thông qua luật cũng phải có tri thức, thông tin, chuyên nghiệp hơn. Hiện nay có một thực tế là các chương trình soạn thảo luật pháp của chính phủ luôn không thực hiện được theo đúng thời hạn, do vậy chương trình thông qua luật của Quốc hội cũng khó đảm bảo. Một lý do quan trọng là các bộ ngành của chính phủ đã chưa tập trung nguồn lực phù hợp cho việc soạn thảo luật pháp kể cả về tài chính và nhân lực.

V. Đổi mới sự điều hành của chính phủ

Sự điều hành của chính phủ Việt Nam từ thập kỷ 90 đã có nhiều đổi mới từ việc ban hành thể chế, đến chức năng nhiệm vụ, bộ máy tổ chức. Tuy nhiên nếu so với yêu cầu phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, thì còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục đổi mới hơn nữa, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến chức năng của chính phủ.

1. Quan hệ giữa chính phủ và thị trường

Ai cũng có thể dễ đồng ý là Chính phủ chỉ làm những gì mà thị trường không làm được, trong điều kiện cơ chế thị trường đã phát triển hoàn thiện, các thị trường yếu tố đã phát triển đồng bộ…, nghĩa là thị trường đã làm được các chức năng huy động và phân bổ các nguồn lực phát triển của xã hội. Hiện nay ở Việt Nam cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, các loại thị trường yếu tố mới hình thành sơ khai… do vậy chính phủ không thể không làm những việc mà đáng ra là của thị trường. Để chính phủ có thể làm đúng các chức năng của mình, trước hết chính phủ Việt Nam phải hoàn thiện cơ chế thị trường, xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường để chúng có thể gánh vác trách nhiệm huy động và phân bổ các nguồn lực, nghĩa là thị trường phát triển đến đâu chính phủ lui về vị trí đúng của mình đến đó. Một khi các loại thị trường chưa phát triển, cơ chế thị trường chưa hoàn thiện, chính phủ chưa thể rút lui để tránh tạo ra một khoảng trống quyền lực, Chính phủ phải đảm trách những việc không phải của Chính phủ. Điều đó giải thích Việt Nam tại sao đã chuyển sang kinh tế thị trường, mà chính phủ vẫn thực thi không ít các biện pháp hành chính trong việc huy động và phân bổ các nguồn lực. Chính phủ chỉ có thể từ bỏ các biện pháp lý hành chính, cơ chế “xin-cho”, cấp phát…, khi thị trường phát triển, hoàn thiện và đảm trách được những công việc đó. Cần có một lộ trình thiết lập và phát triển kinh tế thị trường, tạo dựng “bàn tay vô hình”. Ở các nước phương Tây quá trình này đã diễn ra hoàn toàn tự phát, lâu dài, thị trường phát triển trước, tự do tác động hoàn toàn tới sự phát triển, chính phủ dường như không can thiệp. Nhưng ở những nước đi sau như Việt Nam, chính phủ có thể tác động, tạo dựng ra thị trường theo một lộ trình với những giải pháp phù hợp. Một khi thị trường đã phát triển và hoàn thiện, đã phát huy được các chức năng của “bàn tay vô hình”, thì chính phủ có thể tập trung làm tốt những việc đích thực của chính phủ, nghĩa là giữ vai trò của người cầm lái, người trọng tài, người hỗ trợ, chứ không phải là người chèo thuyền, người đá bóng, nhà kinh doanh… Những việc của chính phủ có thể kể ra là:

– Định ra chiến lược, chính sách phát triển kinh tế- xã hội, thể chế, quản lý kinh tế vĩ mô.

– Xác định các chương trình phát triển khai thác, bảo vệ tài nguyên, phát triển khoa học- công nghệ, giáo dục, y tế…

– Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo sự cân đối giữa các ngành và các vùng.

– Bố trí các công trình trọng điểm quốc gia, đặc biệt là những cơ sở hạ tầng, những công trình năng lượng, giao thông, liên lạc.

– Thu thập và phổ biến các thông tin kinh tế.

– Giám sát việc thực thi pháp luật, các nhiệm vụ kinh tế- xã hội.

– Quản lý các quan hệ kinh tế đối ngoại.

– Giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc và bảo vệ môi trường v.v.

Chừng ấy vấn đề đã là một khối lượng công việc quá lớn, quá đủ, và trong không ít trường hợp đã là quá sức đối với một chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế các quan chức chính phủ lại ít hứng thú làm những công việc đích thực của chính phủ, vì những công việc này khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh v.v… mà lại ít hoặc không có lợi lộc cá nhân, họ rất thích thú với những phần việc của thị trường, của “bàn tay vô hình” đặc biệt là trong phân bổ các nguồn lực, duy trì cơ chế “xin – cho” v.v.., vì những công việc này ít phức tạp hơn, dễ mang lại những bổng lộc cá nhân hơn. Đây chính là một lý do vì sao các quan chức chính phủ không dễ từ bỏ việc phân bổ các nguồn lực, từ bỏ cơ chế “xin – cho”. Do vậy, việc chính phủ thu về thực hiện các chức năng đích thực của nó phải được định thành luật, nghiêm cấm các quan chức chính phủ tiếp tục làm thay thị trường.

2. Quan hệ giữa chính phủ và doanh nghiệp

Quan hệ giữa chính phủ Việt Nam và các doanh nghiệp cho đến nay đã có nhiều đổi mới cả về chính sách cũng như cách ứng xử theo hướng các doanh nghiệp ngày càng có nhiều quyền kinh doanh hơn và cũng được xem trọng hơn. Tuy nhiên hiện vẫn còn có vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.

Trước hết đó là vấn đề thành lập doanh nghiệp mới và giải thể doanh nghiệp. Chủ thể quan trọng của mọi nền kinh tế là doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề thành lập các doanh nghiệp mới và giải thể các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp mới thành lập có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của mọi nền kinh tế, vì nó mang lại luồng sinh khí mới, sức sống mới cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp mới càng xuất hiện nhiều càng làm cho nền kinh tế phát triển năng động hơn. Từ năm 2000 đến năm 2002 số lượng doanh nghiệp Việt Nam đã tăng từ 42.288 doanh nghiệp lên đến 62.908 doanh nghiệp,[4] nghĩa là tăng 48,8% doanh nghiệp mới trong 3 năm. Có thể nói đó là một bước tiến đáng kể nhờ có luật doanh nghiệp. Tuy nhiên một quốc gia như Việt Nam có trên 80 triệu dân, mà chỉ có 62,9 ngàn doanh nghiệp, thì đó vẫn còn là con số nhỏ bé so với các quốc gia trong khu vực. Chính phủ Việt Nam đã bãi bỏ hàng trăm giấy phép hạn chế sự ra đời của các doanh nghiệp, nhưng hiện vẫn còn tới 290 giấy phép đang có hiệu lực, mà các cấp chưa muốn bỏ. Do vậy vẫn còn có những khả năng tiếp tục bãi bỏ các giấy phép hơn nữa và tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự ra đời của các doanh nghiệp mới. Trong cộng đồng các doanh nghiệp, các doanh nghiệp mới ra đời đã quan trọng, nhưng các doanh nghiệp ốm yếu, thua lỗ cần loại bỏ cũng có tầm quan trọng không kém. Cần phải tiếp tục sửa đổi luật phá sản để Luật này có thể có hiệu lực.

Thứ hai, sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, trong nước và ngoài nước đã được giảm nhiều trong quá trình đổi mới. Tuy nhiên, hiện vẫn tồn tại tình trạng này và đang được tiếp tục xử lý, nhất là khi Việt Nam được gia nhập WTO. Sự phân biệt đối xử hiện còn tồn tại trên các mặt:

– Các lĩnh vực kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước thường là những lĩnh vực quan trọng, chính yếu, nhiều lợi thế, tuy gần đây nhiều lĩnh vực đã được mở cửa cho doanh nghiệp dân doanh và nước ngoài. Dù vậy sự phân biệt  đối xử ở đây vẫn còn lớn so với các quốc gia trong khu vực.

– Không ít doanh nghiệp nhà nước còn được ưu đãi về vốn, được độc quyền kinh doanh trên một số lĩnh vực, gần đây chính phủ đã hạn chế, nhưng tình trạng độc quyền kinh doanh và bao cấp vẫn còn lớn.

– Khu vực doanh nghiệp nhà nước được bảo hộ nhiều hơn, có lợi thế hơn trong việc xin cấp mặt bằng, vay vốn.

Hiện nay chính phủ Việt Nam đang soạn thảo một luật doanh nghiệp thống nhất cho mọi doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, trong nước và ngoài nước. Bộ luật này sẽ được ban hành là một bước tiến đáng kể về thể chế, và chắc chắn sẽ giảm thiểu sự phân biệt đối xử.

Thứ ba, quan hệ giữa chính phủ với các doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều đổi mới. Theo hướng chính phủ ngày càng để cho doanh nghiệp nhà nước tự chủ kinh doanh, tuy nhiên cơ chế chủ quản vẫn còn khá nặng nề. Về pháp lý, các doanh nghiệp nhà nước được tự chủ kinh doanh, nhưng lại chịu sự quản lý trực tiếp của các bộ, các ngành, các chính quyền địa phương… Thực chất của mối quan hệ “chủ quản” là hai bên dựa dẫm và lợi dụng lẫn nhau. Các doanh nghiệp nhà nước dựa vào quyền lực và uy tín của các cấp chủ quản để có thể tín chấp vay ngân hàng, xin cấp đất, xin cô ta… Đương nhiên các quan chức của các cấp chủ quản cũng có lợi nhờ những quan hệ này. Trung Quốc đã chủ trương chính quyền tách khỏi xí nghiệp; “Chính, xí phân khai” là muốn nhằm giải quyết vấn đề này. Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương bỏ chế độ “chủ quản”, nhưng lại chưa có cơ chế thay thế hữu hiệu, do vậy chế độ “chủ quản” vẫn tiếp tục tồn tại đến nay.

3. Quan hệ giữa chính phủ và các tổ chức xã hội.

Các tổ chức xã hội dân sự có vai trò rất quan trọng trong một nền kinh tế thị trường, vì tiếng nói, nguyện vọng, yêu cầu của các tầng lớp dân chúng, của các doanh nghiệp ở mọi ngành nghề phải có người đại diện. Mỗi ngành nghề cần có một tổ chức như: Hội những người nuôi ong, Hội cây cảnh, Hội nuôi cá, nuôi tôm v.v.. Ở Việt Nam những tổ chức xã hội loại này trong những năm gần đây đã bắt đầu hình thành.  Hiện đã có 240 Hiệp hội ngành nghề có tính chất cả nước và khoảng 1400 hội ngành nghề địa phương. Những tổ chức này đã có những tác động cụ thể như, các hội này đã đại diện cho những người nuôi cá ba sa, nuôi tôm.. kiện lên chính phủ Mỹ về chính sách chống bán phá giá. Họ cũng có thể cùng nhau trao đổi đề xuất những kiến nghị với chính quyền các cấp về những vấn đề có liên quan đến ngành nghề, đến lợi ích của họ.

Chính phủ Việt Nam hiện đang soạn thảo, chuẩn bị ban hành một bộ luật về các tổ chức xã hội, đây sẽ là một khuôn khổ pháp lý quan trọng cho các tổ chức xã hội Việt Nam ra đời và hoạt động phù hợp với kinh tế thị trường.

Một mặt phải thúc đẩy quá trình phát triển của các tổ chức này rộng khắp ở hầu hết các ngành và lĩnh vực, đồng thời phải hướng dẫn để các tổ chức này hoạt động theo luật định.

Một khi các tổ chức này đã phát triển, thì chính phủ phải giao những việc vốn không phải của chính phủ, cho các tổ chức này thực hiện như: cấp giấy chứng chỉ hành nghề, giám sát về nghề nghiệp, bảo vệ lợi ích cho các nhóm ngành nghề, kế toán, kiểm toán, đánh giá tài sản, đánh giá nhà đất…

Những tổ chức này thực sự là những tổ chức xã hội dân sự, do các nhóm dân cư, nghề nghiệp tư tổ chức ra, tự quản lý, tự bảo vệ lấy những lợi ích của mình.

Những tổ chức xã hội này khác với các tổ chức chính trị do Đảng và Nhà nước lập ra như Đoàn thanh niên cộng sản, Hội liên hiệp phụ nữ.

4. Quan hệ giữa chính phủ trung ương và các cấp chính quyền địa phương

Vẫn còn có tình trạng các ngành Trung ương muốn tập trung quyền lực về trung ương với lý do cần có sự quản lý thống nhất theo ngành dọc. Các chính quyền địa phương luôn muốn được tăng thêm quyền lực do yêu cầu quản lý theo lãnh thổ, dường như ai cũng đồng ý là phải có sự phối hợp giữa quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Mọi người cũng dễ đồng ý là tất cả các công việc mang tính toàn quốc, có liên quan tới lợi ích tổng thể của quốc gia thì chính phủ Trung ương quyết định, còn những việc chỉ liên quan đến lợi ích khu vực địa phương sẽ do chính quyền địa phương quyết định. Ở Việt Nam cho đến nay đã có nhiều lần phân cấp cho các chính quyền địa phương, chi tiêu của chính quyền cấp tỉnh, thành phố đã tăng đều từ 26% năm 1992 lên 43% năm 1998 và gần 44% hiện nay. Theo tiêu chuẩn quốc tế, Việt Nam đã là một quốc gia phân quyền cho địa phương khá cao,[5] Trong số 61 tỉnh thành của Việt Nam, có 56 tỉnh nghèo nhất được giữ lại 100% nguồn thu từ phần thuế phân chia. Chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh được giữ lại 24 %, Hà Nội -30%, Vũng Tầu -48%, Bình Dương- 52%, Đồng Nai- 53%. Chính quyền các địa phương còn có các quyền: quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội địa phương mình trình chính phủ phê duyệt, quyền cấp phép cho các dự án đầu tư nước ngoài với quy mô nhất định, quyền phát hành công trái địa phương (Thành phố Hồ Chí Minh), và một số tỉnh .v.v.. Vấn đề đặt ra hiện nay là phân quyền cho địa phương đến đâu là đủ, tiêu chí gì quy định mức độ phân quyền này?

Thứ nhất, thực tế ở các nước cho thấy mức độ phân quyền cho các địa phương tuỳ thuộc vào trình độ phát triển. Ở trình độ phát triển kinh tế còn thấp, quan hệ kinh tế phát triển còn hạn chế, ngân sách Trung ương còn nhỏ, trình độ của cán bộ các cấp chính quyền địa phương còn thấp…, thì chính phủ Trung ương không thể phân quyền nhiều cho địa phương. Nhưng một khi trình độ phát triển kinh tế đã đạt cao hơn, các quan hệ kinh tế phát triển phong phú và đa dạng, ngân sách trung ương dồi dào trình độ cán bộ địa phương đã được nâng cao…, thì việc phân quyền cao hơn cho địa phương lại là cần thiết. Vấn đề đặt ra là mức phân quyền ở Việt Nam như trên trình bày đã là phù hợp chưa? Theo chúng tôi, mức phân quyền cho địa phương ở Việt Nam hiện có mặt còn chưa phù hợp. Về phân chia ngân sách, chính quyền các cấp địa phương được quyền tự chủ tới 44% ngân sách có thể là mức cao, vì hiện nay trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung còn thấp, bình quân đầu người mới khoảng hơn 500 USD, yêu cầu đầu tư xây dựng các kết cấu hạ tầng chung của cả nước rất lớn, do vậy nếu giành cho các địa phương tới 44% ngân sách quốc gia, thì Trung ương sẽ phải hạn chế việc đầu tư xây dựng các cơ sở hạ tầng có tầm cỡ quốc gia như: các bến cảng quốc gia, các đường cao tốc quốc gia, các cơ sở cung cấp điện nước, thuỷ lợi quốc gia v.v. Điều này giải thích tại sao cho đến nay kết cấu hạ tầng của Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với các quốc gia khác trong khu vực, ngay cả so với tỉnh Quảng Tây – tỉnh lạc hậu của Trung Quốc. Tuy nhiên có những mặt, Trung ương có thể phân quyền cho địa phương cao hơn như quản lý giáo dục phổ thông, dạy nghề, y tế dự phòng v.v.

Thứ hai, xu hướng địa phương chủ nghĩa, muốn phát triển những nền kinh tế địa phương là khá phổ biến hiện nay. Quy hoạch phát triển của các tỉnh thành phố gần như theo một công thức – các thành phố lớn đều phấn đấu xây dựng cơ cấu kinh tế – công nghiệp – dịch vụ – nông nghiệp, các tỉnh – nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ. Mỗi tỉnh đều phấn đấu có cả cảng biển, sân bay và một số khu công nghiệp. Do vậy Việt Nam hiện đã có tới hơn 100 cảng biển và khoảng 80 sân bay. Hậu quả là công suất sử dụng nhiều cảng rất thấp: Cảng Đà Nẵng chỉ sử dụng 2,2 triệu tấn/năm so với công suất thực kế 5 triệu tấn/năm, cảng Cửa Việt – 200 ngàn tấn/1 triệu tấn năm, cảng Kỳ Hà -10 ngàn tấn/450.000 tấn năm,[6] Chi phí bốc dỡ tại cảng quá cao so với khu vực. Có những khu kinh tế lớn vào hàng nhất nước nhưng lại liền kề nhau và ở hai tỉnh nghèo nhất nước như khu kinh tế mở Chu Lai và khu kinh tế Dung Quất. Trong phạm vi 100 km từ Đà Nẵng tới Dung Quất đã có tới 3 cảng lớn- Tiên Sa, Kỳ Hà, Dung Quất và 2 sân bay lớn: Đà Nẵng và Chu Lai- Thật sự khó có hiệu quả.

Vấn đề hiện nay là Trung ương phải nắm quyền quyết định quy hoạch phát triển quốc gia: hệ thống cảng biển quốc gia, những sân bay quốc gia, những đường cao tốc quốc gia, những khu công nghiệp quốc gia và chỉ cho phép các tỉnh được quyền quy hoặc, những gì có tầm địa phương tỉnh.

VI. Xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội

Các quốc gia kém phát triển đã lạc hậu so với các nước phát triển về rất nhiều phương diện và do vậy phương diện nào cũng thấy cần phải có đầu tư phát triển. Thực tế phát triển của thế giới cho thấy: trong tất cả các phương diện đó, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội có một tầm quan trọng đặc biệt, vì toàn bộ sự phát triển kinh tế-xã hội của một quốc gia lệ thuộc trước hết vào kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, không có giao thông, liên lạc không thể nói tới một sự phát triển kinh tế nào; giao thông liên lạc lạc hậu khó có thể xây dựng kinh tế hiện đại. Các nước kém phát triển có thể phải xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội đi trước một bước  nhờ vào nguồn viện trợ phát triển của các nước đã phát triển, cũng như sự tích luỹ ban đầu của quốc gia. Thậm chí phải tạm ngừng việc xây dựng các nhà máy lại, tập trung vốn cao hơn cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Các nước kém phát triển phải tập trung đầu tư vào những cơ sở hạ tầng có thể sử dụng ngay, sớm mang lại hiệu quả, sớm phát huy tác dụng- đó là những cảng biển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc từ các cửa khẩu đó tới các trung tâm kinh tế, sau đó mới đến các kết cấu hạ tầng khác. Các kết cấu kinh tế- xã hội mềm phải kể đến trước hết là những thiết chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Không có những thiết chế này không thể nói đến sự phát triển.

Việt Nam trong quá trình đổi mới đã chú trọng đầu tư xây dựng và hiện đại hoá các kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội, và đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Song kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của Việt Nam đến nay vẫn chưa được xây dựng thích ứng với yêu cầu phát triển. Việt Nam chưa có cảng trung chuyển quốc tế, chưa có đường cao tốc hiện đại ra các cảng biển và sân bay quốc tế, chưa có đường sắt hiện đại, sân bay quốc tế nhỏ bé, các thiết chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế còn sơ khai.. Định hướng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của Việt Nam còn phân tán, chưa tập trung vào những định hướng quan trọng nhất. Đây là nguyên nhân rất quan trọng làm cho chi phí, kinh doanh ở Việt Nam còn cao hơn khu vực. Hiện nay các chi phí vận tải biển bốc dỡ ở cảng, vận tải từ cảng về nơi sử dụng, các chi phí liên lạc.. được xem như tương đương với thuế xuất nhập khẩu. Vì những chi phí này cao sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu, hạ thấp khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước.

KẾT LUẬN:

Những vấn đề phát triển của Việt Nam đã được đề cập tới trên đây có thể xem là những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay, tuy nhiên cùng với sự phát triển, những vấn đề mới sẽ luôn xuất hiện, đòi hỏi phải có sự theo dõi nghiên cứu sát sao. Trong tất cả các vấn đề trên đây, chính phủ luôn có một vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển kinh tế của mọi quốc gia. Một chính phủ ban hành được những thể chế đúng đắn, phù hợp với các xu hướng phát triển của thế giới và những điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước, biết điều hành kinh tế năng động và thích ứng với tình thế, biết sử dụng sức mạnh của thị trường, của doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội và dân chúng, biết làm đúng những việc cần làm, thì nền kinh tế chắc chắn sẽ phát triển, tiến bộ và bền vững. Không thể không kể tới vai trò của các cá nhân. Không có Lý Quang Diệu, khó có thể có được Singapore hiện đại ngày nay. Không có Đặng Tiểu Bình, khó có thể thấy được nước Trung Hoa phát triển hiện tại.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.

2. Nghèo, Báo cáo phát triển Việt Nam 2004, tại Hội nghị Tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam, Hà Nội, tháng 12/2003.

3. Các mục tiêu thiên niên kỷ, xoá bỏ khoảng cách Thiên niên kỷ, Liên hiệp quốc, Hà Nội, 2003.

4. Báo cáo phát triển con người Việt Nam 2001, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2001.

5. Việt Nam 2010, tiến vào thế kỷ 21, Báo cáo phát triển Việt Nam 2001, Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ  12/2000.

6. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991-2000.

7. Niên giám thống kê 2003, Tổng cục thống kê.

8. Hoạt động không chính thức và môi trường kinh doanh ở Việt Nam Stoyan Tenew, Amanda Carbier.. NXB Thông tấn 2003.

9. Cải cách hoạt động của chính phủ Trung Quốc, Nguyễn Thành Phát, Thị trưởng Hoàng Thạch, Hồ Bắc Trung Quốc, Thực hiện do Viện kinh tế chính trị thế giới dịch năm 2002.

10. Quản lý và điều hành, Báo cáo phát triển Việt Nam 2005. Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam 12/2004.

11. Cải cách chính phủ cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, NXB Công an nhân dân, 2002, HN.

Hà Nội, tháng 5/2005


(1) Kinh tế Việt Nam 2003 Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, Tr.26.

(2) Nghèo, báo cáo Phát triển Việt Nam 2003, tại Hội nghị tư vấn các nhà tài trợ Việt Nam Hà Nội, 2-3 tháng 12 năm 2003, tr.45.

(3) A Thukorala Prema- Chandra, 2002.

(4) Niên giám thống kê 2003, NXB Thống kê, Hà Nội 2004, tr. 383.

(5) Quản lý và điều hành, Báo cáo phát triển Việt Nam 2005, báo cáo chung của các nhà tài trợ.

(6) Báo Đầu tư 8/9/2003.


SOURCE: TẠP CHÍ THỜI ĐẠI MỚI SỐ 06, THÁNG 11/2005

  • Bản duyệt lại của bài phát biểu tại Hội Thảo Hè 2005 “Tiếp Tục Đổi Mới Kinh Tế và Xã Hội để Phát Triển”, tổ chức tại Đà Nẵng ngày 28-30/7/2005 với sự hỗ trợ của VAPEC, Vietnamese Heritage Institute và Đại học Đà Nẵng.

Trích dẫn từ: http://www.tapchithoidai.org/

BÀI VIẾT ĐƯỢC ĐĂNG DƯỚI SỰ ĐỒNG Ý CỦA  GIÁO SƯ TRẦN HỮU DŨNG – QUẢN TRỊ TRANG TAPCHITHOIDAI.ORG, ĐỀ NGHỊ CÁC BẠN CHỈ ĐỌC THAM KHẢO  VÀ KHÔNG CHÉP LẠI BÀI VIẾT ĐỂ ĐĂNG LẠI NƠI KHÁC VỚI BẤT CỨ MỤC ĐÍCH GÌ.

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading