Site icon THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

ÁP DỤNG TƯ TƯỞNG CANH TÂN NHẬT BẢN TRONG CẢI CÁCH PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM

Advertisements

THS.LS. PHẠM QUANG HUY – Trưởng Văn phòng Luật sư Hàn Sĩ Huy

THS. PHẠM NGỌC LAM GIANG – Viện Nghiên cứu Châu Mỹ

Tư tưởng canh tân của người Nhật có thể coi phát xuất từ Fukuzawa Yukichi với tác phẩm kinh điển “Khuyến học” và hồi ký “Phúc ông tự truyện”***. Công cuộc cải cách pháp luật Việt Nam có thể áp dụng có chọn lựa một số ý tưởng từ tư tưởng canh tân này.

1. Tư tưởng canh tân Nhật Bản

Nhật Bản nổi tiếng thế giới ở việc nâng tầm triết học cho các hoạt động của con người, ví như: thần đạo (shinto), trà đạo, võ sĩ đạo, nhu đạo (judo), hiệp khí đạo (aikido), hoa đạo… Người Nhật nằm lòng câu nói “Samurai lạnh lùng như thanh kiếm của chàng, mặc dù chàng không quên ngọn lửa đã rèn nên thanh kiếm đó[1]. Ngạn ngữ này thể hiện tư tưởng ôn hòa, tự kiềm chế và kỷ luật xuyên suốt toàn bộ nền văn hóa Nhật Bản và trong cuộc sống thường nhật[2].

Về cải cách giáo dục, W.Scott Morton nhận định người quảng bá sự học Tây phương nhiều nhất tại Nhật Bản là Yukichi Fukuzawa[3]. Tư tưởng canh tân Nhật Bản xuất phát từ quan điểm “Không dễ gì thoát ly hẳn những ảnh hưởng của Trung Hoa, song trong quá trình tiếp thu những hiểu biết mới do mối quan hệ qua lại với lục địa, người Nhật dần dần cảm thấy phải bảo vệ nền độc lập dân tộc của mình[4]. Chính vì vậy, “mặc dầu đất nước này rất trân trọng

giáo lý đạo Khổng từ thế kỷ XIII trở đi, nhưng không thấy triết học của Khổng giáo có vai trò chỉ đạo trong việc giải quyết những vấn đề chính trị nảy sinh trong thực tiễn[5]. Cụ thể hơn, Fukuzawa Yukichi phê bình lối học Trung Hoa “Học hành không bao gồm chủ yếu sự đeo đuổi không thực tế như học những chữ cái Trung Hoa rối rắm, đọc những đoạn cổ văn khó nắm được ý nghĩa hoặc ngâm vịnh và làm thơ[6]. Sau khi độc lập về tư tưởng với người Trung Quốc, người Nhật “chấm dứt chính sách bài ngoại” vào khoảng giữa thế kỷ XIX[7]. George Sansom kết luận “Nước Nhật từ đây hòa nhập với đời sống quốc tế. Tôn ty trật tự phong kiến cũng sụp đổ theo và đến năm 1867 chính quyền quân chủ được hoàn toàn khôi phục[8].

Trong lịch sử hiện đại Nhật Bản, Minh Trị được coi là một ông vua thức thời đã tạo điều kiện thuận lợi cho những cải cách lớn, chuẩn bị cơ sở cho việc công nghiệp hóa Nhật Bản. Theo đó “Nói đến Thiên Hoàng Minh Trị, người ta thường nhắc đến ba cải cách lớn do ông đề ra: cải cách thuế điền địa, cải cách giáo dục và luật nghĩa vụ quân sự[9]. Đồng thời, ngay sau khi lên ngôi, “với chính sách đề cao tinh thần dân tộc Nhật Bản thuần túy, chính quyền đã

thượng tôn Thần đạo, đưa nó lên thành một tín ngưỡng quốc gia và chủ trương gạt bỏ mọi yếu tố ngoại lai, trong đó có cả Phật giáo, ra khỏi Thần đạo[10].

Tóm lại, dưới thời Minh Trị, tư tưởng canh tân của Fukuzawa đã có những đóng góp to lớn đưa Nhật Bản chuyển biến với tốc độ nhanh và đuổi kịp các nước văn minh phương Tây, đồng thời ảnh hưởng rộng rãi tới cả khu vực.

2. Sơ lược cải cách pháp luật Việt Nam đến 1995

Là một quốc gia chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường, Việt Nam cần pháp luật mới nhằm xác lập quy tắc của thị trường, bao gồm quy định pháp luật về quyền của cá nhân và doanh nghiệp. Các quyền này (như quyền sở hữu tài sản tư nhân) không tồn tại trong hệ thống pháp luật cũ, cần được định nghĩa cùng với phương thức thực hiện chúng[11]. Xuất phát từ quan điểm xem công cuộc “Đổi mới” của Việt Nam là “quá trình lịch sử chứ không phải là một chương trình của Chính phủ”, “tự phát”, “đi từ dưới lên[12] [13] 

Adam Fforde, Stefan de Vylder đánh dấu việc cải cách pháp luật của Việt Nam bằng nhận định “Sau khi bị mất viện trợ của Khối Liên Xô 1988-1990 và phải dựa vào việc mở cửa cho đầu tư nước ngoài khởi đầu bằng Luật Đầu tư nước ngoài năm 1988, Việt Nam bắt đầu trở nên ngày càng hội nhập vào nên kinh tế quốc tế[14]. Theo quan sát của Ngân hàng Thế giới, “Một bước chủ yếu đã diễn ra trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường của Việt Nam là tháng 4/1992 khi Quốc hội thông qua Hiến pháp mới dứt khoát cho phép quyền sở hữu tư nhân đồng thời tăng cường sự bảo hộ của nhà nước đối với hình thức sở hữu đó[15] và Hiến pháp 1992 “xác lập 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân (sở hữu nhà nước), sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân[16]; quan trọng hơn cả “cả ba loại hình sở hữu này được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật” và “Quyền thừa kế và chuyển nhượng tài sản cũng được bảo hộ [17]. “Việc phát triển thị trường các yếu tố sản xuất đòi hỏi phải có sự thay đổi đáng kể trong tư tưởng và thể chế[17], theo đó, Việt Nam đã nhận định “thị trường hàng hóa” gồm tất cả các nhân tố của quá trình sản xuất: hàng hóa và dịch vụ; lao động; vốn, tiền tệ và tài sản[19].

Mặc dù, tại giai đoạn này, lập pháp đã “trở nên minh bạch hơn; ví dụ như các tranh luận về Bộ luật Dân sự 1995 đã công khai[20] nhưng “thực hiện pháp luật vẫn có một mức độ thấp ở Việt Nam. Ngay cả khi pháp luật tồn tại, khái niệm về thượng tôn pháp luật, một nguyên tắc cơ bản của pháp quyền, không được chấp nhận rộng rãi. Việc coi thường pháp luật trung ương ở các cấp địa phương là phổ biến[21]. Võ Đại Lược nhấn mạnh việc thúc đẩy đổi mới bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền theo hướng “Điều mà người ta cần là phải có đủ chuyên gia luật pháp, các cơ quan luật pháp phải hoạt động công minh, đảm bảo xét xử kịp thời các vụ vi phạm luật pháp và hợp đồng kinh tế[22]. Xét trên định nghĩa “Cải cách pháp luật là việc hiện đại hóa pháp luật bằng cách: đưa pháp luật vào phù hợp với điều kiện hiện tại; loại bỏ các khiếm khuyết của pháp luật; đơn giản hóa của pháp luật; và áp dụng các phương pháp mới và hiệu quả hơn cho việc quản lý pháp luật và phân kỳ tư pháp[23], trong một chừng mực nào đó, theo quan điểm của tác giả, việc cải cách pháp luật (nếu có) ở Việt Nam là một quá trình chưa có lộ trình, tầm nhìn chiến lược, thiếu vắng phản biện độc lập… Ngược lại với thế giới, sau mỗi lần thay đổi, pháp luật Việt Nam thêm nhiều thủ tục, ngày một khó hiểu hơn. Giai đoạn đến 1995, sau khi có chủ trương “Đổi Mới”, có thể được coi là sự cải cách pháp luật mãnh liệt nhất từ trước đến nay.

3. Học hỏi từ tư tưởng canh tân Nhật Bản trong cải cách pháp luật Việt Nam

3.1. Sự học hỏi Nhật Bản của Việt Nam trong quá khứ

Minh chứng hùng hồn cho sự mong mỏi học tập Nhật Bản trong canh tân cứu quốc là Trường Đông Kinh Nghĩa Thục – “một bộ phận của Phong trào Duy Tân rộng lớn đầu thế kỷ XX ở nước ta, có thể là đỉnh cao và cũng là điểm kết thúc của phong trào ấy[24]. Theo Chương Thâu, Đông Kinh Nghĩa Thục xuất hiện ở Hà Nội từ tháng 3/1907 đến tháng 12/1907 dưới hình thức một trường học hợp pháp và phát triển thành một phong trào cải cách tư tưởng văn hóa nhằm “hóa quốc cường dân[25], góp phần quan trọng và công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX[26]. Ngay bản thân tên gọi đã “mô phỏng theo “Khánh Ứng Nghĩa Thục của Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi 1835-1901) được thành lập ở Nhật Bản từ năm 1858[27].

Khẩu hiệu “Khai dân trí – Chấn dân khí – Hậu dân sinh”[28] của Phan Chu Trinh được triệt để thi hành ở giác độ “ là một cuộc vận động và thực hành cải cách giáo dục rộng lớn, sâu sắc, cơ bản[29] với tính cách “cải tạo có tính cách mạng toàn bộ xã hội[30]. Dưới lăng kính “Đông Kinh Nghĩa Thục hay Phong trào Duy Tân miền Bắc”, Nguyễn Văn Xuân nhận định “Mở Đông Kinh Nghĩa Thục ở miền Bắc, thâm ý của Phan Châu Trinh và các đồng chí còn muốn giải tỏa áp lực của chính quyền đối với các tỉnh miền Trung, nơi đã có vài thân sĩ bị bắt, phong trào bị đe dọa, đàn áp[31]. Cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh dám hạch tội Hoàng Đế Khải Định minh triết thế này “Theo luật hiến pháp các nước văn minh trong đời bây giờ, vua nào trái phép, dân có quyền cứ luật mà bắt tội. Tuy ngày nay dân quyền nước Nam còn đè nén, hiến pháp còn chưa được thành lập, song cứ theo lẽ công bình chung trong đời nay, Bệ hạ không sao mà gỡ tội với dân chúng tôi được[32].

Theo Trần Thị Hạnh, tư tưởng cải cách, duy tân của Fukuzawa Yukichi là một hệ thống các quan niệm, quan điểm trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt về con người và sự phát triển của xã hội Nhật Bản theo tinh thần học tập văn minh phương Tây nhưng giữ gìn bản sắc và độc lập, tự chủ, ngày càng trở nên cường thịnh.

Trên cơ sở đó, “Các nho sĩ duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX như Phan Chu Trinh, Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền, Lương Văn Can… đã coi Nhật Bản như một tấm gương của các dân tộc châu Á đã tự tìm con đường để độc lập, phú cường, đứng ngang hàng với phương Tây[33]. Vì vậy, tư tưởng của các nhà duy tân Nhật Bản, Trung Quốc trong đó có tư tưởng của Fukuzawa Yukichi đã được các trí thức yêu nước Việt Nam thời kỳ này chuyển tải một cách khéo léo, đạt hiệu quả tuyên truyền cao, gây được làn sóng duy tân trong xã hội. Việc “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”, đào tạo ra những con người Việt Nam có phẩm chất mới được nho sĩ duy tân coi là nhiệm vụ tiên quyết trong ñấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho dân tộc cường thịnh[34].

Cụ Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng đã tổng kết Phong trào Đông Du với hai “đại chí sĩ”: (1) Nhà ái quốc thứ nhất, cụ Sào Nam Phan Bội Châu đã “vỡ núi trổ đường”, “trổ ra một con đường “Đông-học”” khiến cho “bao nhiêu trở lực của người Pháp ngấm ngầm tiêu tan đi mất[35]; (2) Nhà ái quốc thứ hai, cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh “ở trong màn đen che phủ mấy lớp, một tay xé toang, khiến cho chính-phủ “bù nhìn” dưới máy dựt của người Pháp, hoàn toàn mất cả tín nhiệm của quốc dân, dầu cho sơn thếp tô điểm, tuyên truyền, vùa dợ thế nào…[36].

3.2. Cải cách pháp luật Việt Nam cần học gì ở Nhật Bản

Trong công cuộc cải cách pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể học hỏi Nhật Bản ở một số điểm như sau:

Thứ nhất, những cơ quan tư vấn (think tank): thông tin tối đa với chi phí tối thiểu.

Những cơ quan tư vấn (think tank) với thông tin tối đa với chi phí tối thiểu[37] là điều Việt Nam cần học hỏi từ Nhật Bản. Theo đó, cách đây 25 năm, đội ngũ nghiên cứu của 120 công ty tư nhân Nhật Bản có vốn nghiên cứu & phát triển (R&D) từ 300 triệu đến 2 tỷ đô la[38]. Học tập Nhật Bản, Việt Nam nên phát triển các “think tank”, đặc biệt trong nghiên cứu pháp luật.

Thứ hai, minh bạch pháp luật.

Đào Huy Ngọc chỉ ra một trong những nhân tố làm cơ sở cho chính sách kinh tế để có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế là “có luật pháp rõ ràng và tất cả mọi người phải bình đẳng trước pháp luật[39]. Theo Rodney Clark, “Về một số phương diện, luật Nhật Bản đem lại cho các cổ đông của một công ty nhiều quyền lực thực chất hơn cả nhiều nước phương Tây. Cổ đông kiểm soát ít ra là 3% vốn của Công ty, có thể yêu cầu tòa án buộc một giám đốc phạm sai

lầm phải từ chức (Điều 257)[40]. Công ty Nhật Bản (kaisa) có những nội hàm mang yếu tố xã hội, tình cảm đối với người Nhật hơn là một doanh nghiệp, xí nghiệp theo các hiểu phương Tây[41]. Trong một khía cạnh nào đó, người Nhật coi đó như một Gia Đình Lớn. Xét trong bối cảnh quan hệ Việt Nam – Nhật Bản rất tốt hiện nay[42], Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm chuyển đổi của Nhật Bản trong việc kiểm soát các tập đoàn Nhà nước cũng như thành lập thí điểm các công đoàn chuyên ngành đảm bảo “Quyền tự do công đoàn là quyền cơ bản của người lao động[43], minh bạch hệ thống pháp luật.

Thứ ba, tư duy tự do và cải cách án văn Việt Nam.

Fukuzawa Yukichi đưa ra bốn lý do khuyến học người Nhật: (1) Ai sinh ra đều được đối xử công bằng như nhau; dựa vào học thức mỗi người; (2) Học để dũng cảm chiến đấu vì lẽ phải; (3) Học để được TỰ DO; (4) Học vì lòng tự hào dân tộc, để ngoại bang không còn khinh miệt[44]. Trên cơ sở tư duy tự do, thẩm phán Việt Nam có thể học tập đồng nghiệp Nhật Bản trong việc “sáng tạo pháp luật” (judge-made law) bằng giải thích pháp luật, lựa chọn án lệ trong bối cảnh mặc dù “Hệ thống pháp luật Nhật bản cơ bản dựa vào pháp luật thành văn (codified law)” nhưng “các phán quyết, đặc biệt của các thẩm phán Tòa án tối cao, được tôn trọng và tuân thủ như một nguồn chính của pháp luật. Nhiều quy định thường nổi lên từ án lệ. Theo đó, việc nghiên cứu án văn của tòa án là phần quan trọng trong thảo luận các vấn đề pháp luật. Phán quyết và quyết định của Tòa án tối cao cũng như các tòa cấp dưới được nghiên cứu, bình luận bởi các học giả và luật sư hành nghề. Các bình luận này thường được xuất bản tại các tập san pháp lý và thường ảnh hưởng tới tòa án trong cách thức quyết định bản án[45].

Tại Việt Nam, với chủ trương hệ thống hóa án lệ phục vụ công tác xét xử, ngày 29/10/2015, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tổ chức họp báo công bố Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ[46]. Vì vậy, để việc lựa chọn án lệ, phương thức viết án văn (bản án, quyết định của Tòa án) Việt Nam hiệu quả, bài viết xin đề xuất một số kiến nghị: Thứ nhất, để bản án của tòa án có giá trị thiết thực thì Ủy ban thường vụ Quốc hội cần ủy quyền cho tòa án được thực hiện giải thích pháp luật trong một số trường hợp nhất định. Nội dung giải thích pháp luật phải được thể 

hiện trong bản án, cụ thể ở đây là ở phần “xét thấy” của bản án, bởi đó chính là nhận định của Hội đồng xét xử để đưa ra phán quyết của mình. Thứ hai, khi đã có thẩm quyền giải thích pháp luật trong một số trường hợp cụ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, thì các thẩm phán cần sử dụng các kiến thức về pháp lý nói chung và viện dẫn các quy định của pháp luật bao gồm cả hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, cũng như những lập phù hợp với thực tiễn, nhằm đơn giản hóa các quy phạm pháp lý sao cho bản án có tính thuyết phục và có giá trị thi hành. Với lập luận đó, chúng tôi kiến nghị trong phần “xét thấy” của án văn, thẩm phán hoàn toàn tự do và độc lập tư duy lập luận như một công trình khoa học (luận văn, luận án, bài viết khoa học) và có thể trích dẫn ý kiến khoa học của tác giả khác.

Tóm lại, việc học hỏi canh tân Nhật Bản trong cải cách pháp luật sẽ góp phần khiến cho người Việt thấu hiểu: “Không ai có thể làm nhục một dân tộc, chỉ có dân tộc ấy tự làm nhục mình, ngay cả trong một trận cầu! Không con người nào bị ép buộc quỳ gối, chỉ vì người ấy không tự biết cách đứng lên đấy thôi!”.

Tài liệu tham khảo

1. East Asia Analytical Unit (1997), The New ASEANs: Vietnam, Burma, Cambodia & Laos, Department of Foreign Affairs and Trade, Australia.

2. Encyclopaedic Australian Legal Dictionary, dẫn theo http://guides.lib.monash.edu/law/lawreform, truy cập ngày 18/9/2016.

3. Gen Itasaka, John Howard Loftus translated (1996), Gates to Japan: Its People and Society, Tokyo.

4. Hiroshi Oda (1999), Japanese Law (2nd edition), Oxford, London, p.50, 51.

5. Michio Morishima (1982), Why has Japan “succeeded”: Western technology and the Japan ethos, Cambridge, London.

6. W.Scott Morton (1994), Japan: Its History and Culture (3rd edition), Mc Graw Hill, Inc, New York.


[1] Rodney Clark (1989), Công ty Nhật Bản (Lịch sử và hoạt động thực tiễn), Nxb. Khoa học xã hội, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội, tr.165.

[2] Chie Nakane (Đào Anh Tuấn dịch) (Lê Văn Sang hiệu đính) (1990), Xã hội Nhật Bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.13.

[3] Trần Quang Minh (chủ biên) (2015), Thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam Nhật Bản trong bối cảnh mới ở Đông Á, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[4] Cao Nhất Linh, “Quyền thành lập, tham gia Công đoàn trong luật quốc tế và luật Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 5(166), tháng 3/2010, tr.37.

[5] Fukuzawa Yukichi, Chương Thâu dịch (2013), Khuyến học & Luận và Bình, Văn hóa Thông tin và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

[6] Hiroshi Oda (1999), Japanese Law (2nd edition), Oxford, London, p.50, 51.

[7] Tâm Lụa,“TAND công bố áp dụng án lệ”, Tuổi Trẻ, xem http://tuoitre.vn/tin/phap-luat/20151030/tand-toi-cao-cong-bo-ap-dung-an-le/993499.html.

[8] Trần Thị Hạnh, “Tư tưởng của Fukuzawa Yukichi về con người và ảnh hưởng đến chuyển biến tư tưởng của nho sĩ duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, 27 (2011), 30-42, tr.30.

[9] Trần Thị Hạnh (2011), Tlđd, tr.31.

[10] Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng (1957), Bức thư bí mật của Cụ Huỳnh Thúc Kháng trả lời Cụ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để năm 1943 (Lịch trình cách mạng Việt Nam thời kỳ thuộc Pháp), Anh Minh, Huế, tr.38.

[11] Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng (1957), Sđd, tr.39.

[12] Ezra F. Vogel (1990), Hoa Kỳ học gì ở Nhật Bản (Nhật Bản là số 1), Nxb. Khoa học Xã hội, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội, tr.57.

[13] Đào Huy Ngọc (1991), Sđd, tr.24.

[14] Đào Huy Ngọc (1991), Sđd, tr.76.

[15] Nguyên Ngọc “Một bước nhận thức mới về Đông Kinh Nghĩa Thục và Phong trào Duy Tân” trong Nhiều tác giả (2008), 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tr.7.

[16] Nguyên Ngọc “Một bước nhận thức mới về Đông Kinh Nghĩa Thục và Phong trào Duy Tân” trong Nhiều tác giả (2008), 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tr.7.

[17] Nguyễn Văn Xuân (2000), Phong trào Duy Tân, Đà Nẵng, Đà Nẵng, tr.224.

[18] Di cảo cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh (1958), Thư Thất Điều của cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh gửi vua Khải Định ở Paris năm 1922, Anh Minh, Huế, tr.9.

[19] Nhiều tác giả (2008), 100 năm Đông Kinh Nghĩa Thục, Nxb. Tri Thức, Hà Nội, tr.6.

[20] Chương Thâu (1982), Đông Kinh Nghĩa Thục và Phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX, Hà Nội, Hà Nội, tr.32.

[21] Chương Thâu (1982), Sđd, tr.7, 32.

[22] Chương Thâu (1982), Sđd, tr.33.

[23] Xin lưu ý chữ “hậu” ở đây không có nghĩa là “sau” mà có nghĩa trong từ “hậu đãi” (động từ).

[24] East Asia Analytical Unit (1997), Sđd, p.31.

[25] East Asia Analytical Unit (1997), Sđd, p.31.

[26] Võ Đại Lược, Trần Văn Thọ (chủ biên) (1993), Vai trò của Nhà nước trong phát triên kin tế: Kinh nghiệm Nhật Bản, ASEAN và Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.31.

[27] Encyclopaedic Australian Legal Dictionary, dẫn theo http://guides.lib.monash.edu/law/lawreform, truy cập ngày 18/9/2016.

[28] Adam Fforde, Stefan de Vylder (1997), Sđd, tr.16.

[29] Ngân hàng Thế giới (1993), Báo cáo Kinh tế 15/9/1993: Việt Nam quá độ sang kinh tế thị trường, Vụ Khu vực 1, Ngân hàng Thế giới Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, Hà Nội, tr.35.

[30] Ngân hàng Thế giới (1993), Sđd, tr.35.

[31] Ngân hàng Thế giới (1993), Sđd, tr.35.

[32] Börje Ljunggren (chủ biên) (1994), Những thách thức trên con đường cải cách ở Đông Dương, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.179.

[33] Börje Ljunggren (chủ biên) (1994), Sđd, tr.179.

[34] Phạm Hồng Thái (2008), Tư tưởng Thần đạo và xã hội Nhật Bản cận hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.33.

[35] East Asia Analytical Unit (1997), The New ASEANs: Vietnam, Burma, Cambodia & Laos, Department of Foreign Affairs and Trade, Australia, p.25

[36] Điều mà các biên tập viên của Nxb. Chính trị quốc gia không đồng thuận, được bình luận là “vũ đoán”, cảnh báo và đánh dấu bằng các hoa thị (*) trong cuốn sách.

[37] Adam Fforde, Stefan de Vylder (Trần Thị Thái Hà dịch), (Trần Đình Toàn, Vũ Cương, Lê Bộ Lĩnh hiệu đính) (1997), Từ Kế Hoạch đến Thị Trường: Sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.3.

[38] George Sansom, Lê Năng An dịch (1995), Lịch sử Nhật Bản: Tập III 1615-1867, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.125.

[39] Fukuzawa Yukichi, Chương Thâu dịch (2013), Khuyến học & Luận và Bình, Văn hóa Thông tin và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, tr.8.

[40] George Sansom (1995), Sđd, tr.381.

[41] George Sansom (1995), Sđd, tr.395.

[42] Đào Huy Ngọc (1991), Vài suy ngẫm về sự “thần kỳ” Nhật Bản, Nxb. Sự thật, Viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội, tr.9.

[43] V.A. Pronnikov, I.D. Ladanov, Đức Dương, Minh Đăng, Trần Ngọc Phong dịch (1988), Người Nhật (Khảo luận tâm lý dân tộc) Quyển 1, Tổng hợp Hậu Giang, Hậu Giang, tr.61.

[44] Gen Itasaka, John Howard Loftus translated (1996), Gates to Japan: Its People and Society, Tokyo, Pp.13

[45] W.Scott Morton (1994), Japan: Its History and Culture (3rd edition), Mc Graw Hill, Inc, New York, p.155.

[46] George Sansom, Lê Năng An dịch (1994), Lịch sử Nhật Bản: Tập I từ Thượng cổ đến năm 1334, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.198.

SOURCE: TÁC GIẢ CUNG CẤP – TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU ẤN ĐỘ VÀ CHÂU Á SỐ 11(48) THÁNG 11/2016.

Exit mobile version