Site icon THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ: VÀI BƯỚC TỚI NGẮN, NHỮNG BƯỚC LUI DÀI

Advertisements

LS. QUÁCH TÚ MẪN – Công ty Luật Hợp danh Danh và Cộng sự

I. Tóm lược nội dung

A. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội thông qua ngày 29/03/2011 LTTDS2011, bãi bỏ 8 Điều luật, bổ sung 11 Điều, sửa đổi 41 điều luật cũ. Ngoài những phần chỉ sửa đổi câu chữ, sắp xếp lại câu văn và không ảnh hưởng đến trình tự tố tụng cũ, có thể thống kê được 6 phần sửa đổi, bổ sung chính như sau:

1- Mở rộng thẩm quyền toà án:

a) Thẩm quyền chung của toà án:

– Điều 25 “Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án” bổ sung 3 loại tranh chấp sau:

+ Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

+ Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

+ Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

– Điều 26 “Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án” bổ sung tương ứng với Điều 25 về tranh chấp hai loại việc sau:

+ Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

+ Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

– Điều 32a “Thẩm quyền của toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức” bổ sung quyền của Toà án: khi giải quyết vụ việc dân sự, có quyền huỷ quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết.

– Điều 94 “Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ” quy định cá nhân, cơ quan lưu giữ chứng cứ không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của toà án, viện kiểm sát thì tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật.

b) Thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ:

– Điều 35: bổ sung thẩm quyền của toà án liên quan đến các loại vụ việc mới: toà án nơi có trụ sở công chứng, cơ quan thi hành án hoặc theo Luật Trọng tài thương mại

c) Thẩm quyền của toà án cấp huyện:

– Điều 33: thẩm quyền toà án cấp huyện được mở rộng để giải quyết mọi tranh chấp về kinh doanh, thương mại. Đối với việc dân sự, toà án cấp huyện chỉ bị giới hạn bởi loại yêu cầu quy định ở khoản 5 Điều 26 LTTDS2011.

2- Những quy định ảnh hưởng đến quyền tố tụng của người dân

– Điều 58 “Quyền và nghĩa vụ đương sự” sắp xếp lại quyền của đương sự, và quy định ở điểm o khoản 2, đương sự chỉ được đưa ra câu hỏi “khi được phép của Toà án”.

– Điều 176 “Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn”, Điều 177 “Quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan” quy định bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có yêu cầu phản tố trước khi Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

– Điều 189 “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sựbổ sung trường hợp “Cần đợi kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Toà án mới giải quyết được vụ án mà thời hạn giải quyết đã hết

– Điều 199 “Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” quy định: ở phiên toà triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, một bên/các bên đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể vắng mặt và toà sẽ hoãn xử. Ở phiên toà triệu tập hợp lệ lần hai, toà vẫn xử hoặc đình chỉ vụ án nếu có một bên/các bên vắng mặt.

– Điều 262 “Chuyển hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát nghiên cứu” quy định toà án chỉ chuyển hồ sơ cho VKS sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn để viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ là 15 ngày.

3- Thay đổi về thời hiệu khởi kiện

– Điều 159 “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu” quy định “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện thì thực hiện như sau:

a) tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai” thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện;

b) tranh chấp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện dân sự là 2 năm” kể từ ngày biết quyền lợi mình bị xâm phạm.

– Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự vẫn là 1 năm kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu.

4- Đưa viện kiểm sát vào tham gia phiên toà

a) Ở phiên toà cấp sơ thẩm:

– Điều 21 “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” quy định ở cấp sơ thẩm viện kiểm sát tham gia vào:

+ các phiên họp đối với các việc dân sự;

+ các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.

Ngoài ra, viện kiểm sát nhân dân còn tham gia vào các phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.

– Điều 234 “Phát biểu của kiểm sát viên” được thay đổi hoàn toàn. KSV không còn có ý kiến về việc giải quyết vụ án nữa. Kiểm sát viên chỉ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án mà thôi.

b) Ở cấp phúc thẩm:

– Điều 264 “Những người tham gia phiên toà phúc thẩm” bổ sung sự tham gia bắt buộc của Viện kiểm sát ở cấp phúc thẩm.

– Điều 273a “Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm” được quy định sau phần tranh luận.

5- Thay đổi quy định về thủ tục giám đốc thẩm

a) Quyền đề nghị giám đốc thẩm

– Điều 284 “Phát hiện bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm” quy định đương sự có quyền đề nghị giám đốc thẩm trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật.

– Điều 284a bổ sung quy định về đơn đề nghị giám đốc thẩm.

– Điều 284b “Thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm” quy định đơn đề nghị phải được toà án, viện kiểm sát vô sổ, cấp giấy xác nhận đã nhận đơn. Các cơ quan còn phải phân công cán bộ nghiên cứu hồ sơ và thông báo kết quả cho đương sự biết.

b) Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

– Điều 288 “Thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm” vẫn là 3 năm nhưng có thể gia hạn thêm 2 năm nếu đương sự có đơn trong thời hạn 1 năm và tiếp tục có đơn sau thời hạn kháng nghị 3 năm.

6- Bổ sung thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán

– Bổ sung Chương XIXa “Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao” gồm 2 Điều 310a và 310b.

– Điều 310a “Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao” quy định:

+ Khi có yêu cầu của Uỷ ban Thường vụ QH, Hội đồng Thẩm phán phải xem xét lại quyết định.

+ Khi có kiến nghị của Uỷ ban tư pháp QH, Viện trưởng VKS, Chánh án toà án tối cao, Hội đồng Thẩm phán phải xem xét kiến nghị đó, không đồng ý thì phải trả lời bằng văn bản, đồng ý thì tiến hành việc xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán theo Điều 310b.

– Điều 310b “Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao” quy định Hội đồng Thẩm phán có thẩm quyền quyết định:

a) Huỷ quyết định của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;

b) Huỷ quyết định của hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của toà án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị huỷ do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;

c) Huỷ quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho toà án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.

B. Nghị quyết 60/2011 ngày 29/03/2011 quy định về việc thi hành LTTDS2011 có thể được tóm lược như sau:

+ Việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm sau ngày 01/01/2012 được thực hiện theo LTTDS2011.

+ Việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, giải quyết sơ thẩm, phúc thẩm trước ngày 01/01/2012 được thực hiện theo luật tố tụng dân sự 2004.

+ Riêng trong khoảng thời gian từ ngày 08/04/2011 đến ngày 01/01/2012, thời hạn, căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện theo LTTDS2011.

II. Một số ý kiến về luật tố tụng dân sự 2011

A. Những điểm tiến bộ:

– Nguyên tắc Bảo đảm quyền tranh luận tố tụng dân sựlần đầu tiên được luật ở Điều 23a, quy định toà án phải đảm bảo cho các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.

– Điều 90 “Trưng cầu giám định” quy định người đã thực hiện việc giám định trước đó không được thực hiện giám định lại, góp phần làm cho vụ việc được giải quyết khách quan, chính xác hơn.

– Điều 92 “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản”: loại bỏ vai trò của toà án trong việc định giá, tạo sự độc lập cho trong công tác định giá, khách quan trong xét xử.

– Cùng trong Điều 92, bổ sung công tác thẩm định giá tài sản phù hợp với sự phát triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh tiến trình giải quyết vụ việc.

– Mở rộng thẩm quyền của toà án phù hợp với xu thế tất yếu của phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện cho người dân dễ tiếp cận pháp luật (các Điều 25, 26, 31, 32a, 33, 35, 36, 37).

B. Nhiều điều bất cập:

1- Nhiều cụm từ khái quát, không được định nghĩa cụ thể:

– Khoản 2 Điều 21 sử dụng cụm từ “tài sản công”, “lợi ích công cộng” là những cụm từ có nhiều cách hiểu và đã ra gây nhiều tranh cãi pháp lý nhưng tiếp tục được luật TTDS2011 sử dụng và không có định nghĩa.

– Điểm o khoản 2 Điều 58 tiếp tục dùng từ “người khác” (Đưa ra câu hỏi với người khác…) nhưng không xác định cụ thể bao gồm những người tham gia tố tụng nào.

– Điều 159 “Thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu” quy định “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai” thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện nếu những tranh chấp này không phải là tranh chấp mà pháp luật đã quy định thời hiệu như tranh chấp hợp đồng dân sự, thương mại (thời hiệu 2 năm), thừa kế (thời hiệu 10 năm). Quy định tạo ra hai cách hiểu,áp dụng luật:

+ Cách hiểu trực tiếp, sẽ là tranh chấp không có thời hiệu nếu nguyên đơn và bị đơn không phải là những người cùng trực tiếp giao kết hợp đồng dân sự hoặc là đồng thừa kế.

Cụ thể, người thứ ba có thể khởi kiện “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” với bên mua của một giao dịch hợp đồng dân sự mua bán nhà đất hợp pháp đã hoàn thành nhiều năm, thậm chí 10, 20 năm nếu người này có thể chứng minh họ là người chủ sở hữu thực sự (người bán chỉ đứng tên dùm) hoặc là đồng sở hữu (đồng thừa kế bị các thừa kế khác bỏ sót khi khai trình). Hiểu theo cách này có điểm bất hợp lý là người thứ ba không có quyền khởi kiện tranh chấp trực tiếp với người đứng tên dùm hoặc đồng thừa kế vì đã hết thời hiệu nhưng lại có quyền tranh chấp với người mua do “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” không tính thời hiệu. Quy định này còn làm cho các giao dịch dân sự trở nên thiếu an toàn, gây mất ổn định xã hội.

+ Cách gián tiếp không chấp nhận cách hiểu trên và cho rằng người thứ ba không có quyền khởi kiện “tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” vì quyền sở hữu trong trường hợp này cũng phát sinh (gián tiếp) từ quan hệ hợp đồng (hợp đồng đứng tên dùm), quan hệ thừa kế nên phải bị chi phối bởi quy định về thời hiệu.

Hiểu theo cách này, tranh chấp không tính thời hiệu khởi kiện còn lại rất ít, hầu như không có phát sinh.

– Điều 184 “Thành phần phiên hoà giải” bổ sung quy định 185a “Trình tự hoà giải” cho phép Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên hoà giải nhưng không nói rõ những người này tham gia với tư cách tố tụng gì.

– Ngược lại với điều này, Luật TTDS2011 quên quy định quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng của công chứng viên, văn phòng, phòng công chứng khi giải quyết tranh chấp có yêu cầu tuyên văn bản công chứng vô hiệu.

– Điều 199 “Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” sẽ là một điểm tiến bộ, đảm bảo cho người dân có được một phiên toà nhanh chóng, đúng pháp luật nếu như các thuật ngữ pháp lý như “triệu tập hợp lệ lần thứ 1”, “triệu tập hợp lệ lần thứ hai”, “sự kiện bất khả kháng” được quy định cụ thể. Bằng không, quy định này sẽ gây khó khăn cho người dân, phát sinh bất công và án oan sai, không sửa chữa được. Trường hợp toà án áp dụng quy định “sự kiện bất khả kháng” quá khắt khe, cứng nhắc sẽ gây bất lợi lớn cho dân nghèo, dân ở vùng quê xa xôi, hụt một chuyến đò, trễ dự phiên toà kể như mất trắng vụ kiện. NếuToà án chấp nhận “sự kiện bất khả kháng” quá dễ dàng sẽ tạo cơ hội cho một bên đương sự lợi dụng, kéo dài việc giải quyết vụ án. Trong lần triệu tập hợp lệ thứ 1, nếu các đương sự đều có mặt nhưng phiên toà bị hoãn do lỗi hoặc do yêu cầu của toà án mà vẫn tính là đã qua một lần triệu tập hợp lệ, sẽ trái với nguyên tắc đương sự được vắng mặt một lần. Nếu phiên toà được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 3, 4 … thì phải hiểu như thế nào?

– Ngoài ra, Luật TTDS2011 vẫn tiếp tục không làm rõ định nghĩa của các cụm từ như “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”, “Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật”. Các cụm từ này trong thời gian qua đã bị các cơ quan tố tụng tuỳ tiện áp dụng trong khi xét xử cũng như xem xét đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, gây nhiều oan sai, bức xúc trong nhân dân.

– Có nhiều ý kiến yêu cầu phải làm rõ nghĩa tất cả các cụm từ trên để đảm bảo quyền và lợi ích của người dân, nâng cao trách nhiệm của cơ quan tố tụng và giảm án sai, vi phạm pháp luật.

– Cuối cùng, Nghị quyết 60/2011 cũng dùng những cụm từ khái quát như “Việc kháng nghị” ở điểm d khoản 2 Điều 2, không rõ bao gồm những công việc gì, ở các Điều luật nào; Cụm từ “Thủ tục giám đốc thẩm” ở điểm c khoản 1 Điều 2, nếu hiểu theo quy định bộ luật tố tụng dân sự gồm toàn bộ công tác giám đốc thẩm, sẽ có mâu thuẫn với các điểm a, b trong cùng khoản, điều luật của nghị quyết.

2- Gây lãng phí ngân sách Nhà nước, tăng chi phí cho xã hội

– Luật TTDS2011 quy định bổ sung sự tham gia của viện kiểm sát trong các phiên toà các cấp. Quan điểm ủng hộ quy định này cho rằng có tham gia phiên toà Viện kiểm sát mới có thể phát hiện vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án. Ngoài ra, do “chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian qua chưa cao” nên cần có sự tham gia của viện kiểm sát. (1)

Ngược lại, có nhiều ý kiến xác đáng cho rằng sự tham gia của viện kiểm sát trong các phiên toà là không cần thiết và gây tốn kém kinh phí Nhà nước, tăng chi phí cho người dân. Rõ ràng, không cần tham gia phiên toà, viện kiểm sát có đủ thẩm quyền và phương cách để phát hiện vi phạm. Thực tiễn, thời gian qua, nếu chịu khó nghiên cứu và giải quyết đơn thư đề nghị kháng nghị, khiếu nại của người dân, viện kiểm sát cũng có thể phát hiện nhiều vi phạm. Sự tham gia của viện kiểm sát cũng không phải là cách giải quyết đúng đắn, gốc rễ vấn đề “chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết các vụ việc dân sự trong thời gian qua chưa cao”. Và nếu có một thống kê đầy đủ kinh phí Nhà nước và chi phí của người dân cho sự tham gia của viện kiểm sát và so sánh với lợi ích phát sinh, chắc chắn chúng ta sẽ thấy rõ đây một lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước.

– Cũng có ý kiến cho rằng chế định mới “thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán” cũng là một lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước do chỉ có tác dụng giải quyết những án oan, sai trong quá khứ còn tồn đọng nhưng không thể ngăn ngừa, không phải là cách giải quyết từ gốc rễ các “án oan, sai” phát sinh trong tương lai.

– Quả thật, nếu chúng ta có thể xác định rõ ràng thế nào là án “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”, “Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật” để không thể có sự khuất lấp án vi phạm, bao che cán bộ sai phạm và nếu chúng ta có chế định xử lý nghiêm nhặt tất cả cán bộ toà án có trách nhiệm với bản án vi phạm từ cán bộ ngồi xét xử đến bộ phận kiểm tra, giám đốc xét xử, chắc chắn án “oan sai” sẽ được giảm thiểu ở mức thấp nhất. Và khi đó, các chế định mới bổ sung nói trên sẽ trở thành thừa, không cần thiết.

3- Nhiều nội dung hạn chế quyền tiếp cận pháp luật và quyền được xét xử nhanh chóng, đúng pháp luật của người dân

* Nội dung gây khó khăn cho người dân

– Điều 32a quy định toà án có thẩm quyền huỷ quyết định cá biệt cơ quan, tổ chức là điểm tiến bộ nhưng khoản 2 Điều 32a này lại quy định thẩm quyền toà án giải quyết vụ việc dân sự có liên quan đến quyết định cá biệt bị yêu cầu huỷ được xác định theo luật tố tụng hành chính. Quy định về thẩm quyền này, áp dụng trong thực tế sẽ tạo nhiều khó khăn cho người dân. Cụ thể, tranh chấp dân sự đang được Toà án cấp huyện giải quyết mới phát sinh yêu cầu huỷ quyết định cá biệt cấp tỉnh, sẽ phải dừng lại và chuyển lên toà án cấp tỉnh.

– Điều 192 khoản 2 buộc người dân phải có yêu cầu, mới được nhận lại đơn và tài liệu chứng cứ kèm theo khi có quyết định đình chỉ vụ án. Quy định này tạo cơ hội cho cơ quan toà án quan liêu, buộc người dân phải có đơn thư theo mẫu, liệt kê chứng từ đầy đủ, nếu không sẽ không được giải quyết. Đáng ra, để phục vụ người dân, luật phải quy định: “Trong trường hợp này, toà án phải hoàn trả toàn bộ hồ sơ, chứng cứ đã cung cấp cho các đương sự”.

– Điểm o khoản 2 Điều 58 bổ sung quy định đương sự được đưa ra câu hỏi với người khác khi được phép của Toà án. Thực tiễn theo quy định cũ, “được đề xuất với toà án những vấn đề cần hỏi với người khác”, đương sự đương nhiên được đặt câu hỏi. Nay với quy định mới, nếu Toà án muốn gây khó khăn cho người dân, có thể vận dụng, cho phép một bên hỏi, không cho bên kia phép được hỏi. Và khi đó, nguyên tắc “Bảo đảm quyền tranh luận tố tụng dân sự” giữa các bên đương sự mới được bổ sung sẽ không còn tác dụng.

– Điều 164 “Hình thức, nội dung đơn khởi kiện” tiếp tục không quy định về việc đại diện theo uỷ quyền làm đơn khởi kiện, ký tên, điểm chỉ trên đơn khởi kiện, hạn chế hẳn quyền dân sự, tố tụng dân sự của người dân. Vừa qua, người dân rất bức xúc vì không thể thực hiện quyền uỷ quyền đại diện tố tụng dân sự từ khâu làm, nộp đơn khởi kiện dù quyền uỷ quyền và đại diện uỷ quyền tố tụng dân sự được quy định rất rõ ở Điều 73 Bộ luật Tố tụng dân sự. Cơ quan toà án đã chỉ dựa vào việc Điều 164 không quy định trường hợp người được uỷ quyền làm đơn khởi kiện, ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn khởi kiện để buộc chính nguyên đơn ký tên và … đích thân nộp đơn khởi kiện.

– Điều 164 và Điều 284a tiếp tục quy định người dân phải có tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, đề nghị giám đốc thẩm chứng minh cho yêu cầu của mình có căn cứ và hợp pháp. Quy định này hiện đang được cơ quan Toà án diễn giải hết sức tuỳ tiện, gây nhiều bất công, khó khăn, có trường hợp hạn chế hoàn toàn quyền tố tụng của người dân.

Cụ thể, người khởi kiện hầu như không thể thực hiện được, trong tranh chấp thừa kế, yêu cầu phải kèm theo đơn khởi kiện, khai sinh của các đương sự khác; trong tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, yêu cầu phải có tài liệu, chứng cứ về mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và người gây thiệt hại.

– Thông lệ, ở các nước, đơn khởi kiện chỉ cần liệt kê chứng cứ. Việc cung cấp chứng cứ, thu thập chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của các bên đương sự được thực hiện ở khâu thu thập chứng cứ của thủ tục giải quyết vụ việc dân sự. Những yêu cầu khởi kiện không có căn cứ, vô lý, có tính lạm dụng ngoài việc phải lãnh nhận hậu quả pháp lý như mất án phí, bồi thường thiệt hại v.v còn có thể bị toà án xử phạt một số tiền lớn.

* Nội dung không khả thi

– Khoản 2 Điều 94 quy định người vi phạm, không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu toà án, viện kiểm sát sẽ bị xử lý theo quy định pháp luật. Nhiều quan điểm cho rằng quy định chung chung này thiếu tính thực tiễn, không phù hợp với các quy định pháp luật khác và sẽ không khả thi. Rõ ràng,toà án không thể có thẩm quyền xử phạt hành chính các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội khác nhất là các cơ quan, tổ chức cấp trên của Toà án.

– Tương tự như trên, Điều 92 “Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản” quy định trách nhiệm của những người không tham gia Hội đồng định giá cũng không khả thi và công tác định giá sẽ tiếp tục là một khó khăn cho người dân.

– Cần biết thêm rằng, hiện ngay cả đối với đương sự, toà án cũng không có thẩm quyền để xử lý trường hợp vắng mặt nơi cư trú, không hoạt động tại trụ sở đăng ký. Thực tiễn, chỉ cần có xác nhận của công an địa phương rằng cá nhân “đã đi nơi khác cư trú”, “đi đâu không rõ” hoặc doanh nghiệp “không thực tế hoạt động tại địa chỉ này” thì toà án không thể triệu tập đương sự lấy lời khai, tham gia hoà giải và cũng không có phương án nào để có thể giải quyết tiếp vụ việc (dù cá nhân còn hộ khẩu thường trú, còn tới lui với gia đình sinh sống tại địa chỉ hộ khẩu, dù pháp nhân không đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở).

*Nội dung hạn chế quyền tố tụng

– Điều 189 khoản 5 “Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự” bổ sung yếu tố “Cần đợi kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp hoặc đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của toà án”. Trong trường hợp này, cần giới hạn thời gian tối đa có thể tạm đình chỉ cũng như trách nhiệm của toà án phải thu thập được chứng cứ. Nếu không, toà án có thể tạm đình chỉ vụ việc mãi mãi để chờ văn bản trả lời từ một cơ quan nào đó và hạn chế hoàn toàn quyền các bên đương sự được toà án giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng và đúng pháp luật.

– Điều 85 “Thu thập chứng cứ” tiếp tục không đưa vào luật quy định về việc cung cấp chứng cứ của một bên cho bên kia. Điều 58 quy định đương sự có quyền “được biết và ghi chép, sao chụp” chứng cứ do các đương sự khác cung cấp. Nhưng thực tế, hầu như người dân không thể thực hiện quyền này do không biết có chứng cứ mới do đương sự khác cung cấp. Cho đến nay vẫn chưa có quy định toà án hoặc các đương sự khác phải có trách nhiệm thông báo cho đương sự “được biết” về chứng cứ mới cung cấp, thu thập. Thực tế khác, khi cố tình thiên vị một bên, cơ quan Toà án sẽ không cho hoặc chỉ cho một bên đương sự được biết và sao chụp chứng cứ một cách lẻ mẻ. Trong trường hợp này, một bên đương sự hoàn toàn bị động cho đến khi có bản án và tất nhiên phải kháng cáo, đề nghị giám đốc thẩm dẫn đến khiếu kiện không có điểm dừng.

– Điều 176, 177 quy định đương sự chỉ có quyền phản tố trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Quy định này sẽ có tác dụng xấu, hạn chế quyền tố tụng của đương sự do theo trình tự tố tụng hiện hành đương sự không thể biết khi nào vụ việc sẽ được đưa ra xét xử để có thể cân nhắc quyết định phản tố. Quy định này cũng chưa phù hợp với quy định đương sự được cung cấp chứng cứ cả ở khâu xét xử (Điều 84).

C. Hạn chế lớn của Luật tố tụng dân sự

– Luật TTDS2011 có điểm hạn chế rất lớn, không quy định trách nhiệm và giới hạn quyền của cơ quan tố tụng trong từng giai đoạn cụ thể của thủ tục giải quyết vụ việc dân sự.

– Trong giai đoạn khởi kiện, hiện nay đang có tình trạng toà án từ chối thụ lý nhiều yêu cầu khởi kiện chính đáng của dân. Cụ thể, toà án nhân dân tối cao có công văn hướng dẫn toà án từ chối thụ lý yêu cầu đòi lại giấy tờ chủ quyền nhà đất viện dẫn lý do giấy tờ nhà đất không phải là giấy tờ có giá, không phải là tài sản. Cách hiểu trên về “tài sản” sai với quy định luật dân sự. Một tờ giấy trắng cũng là vật, tài sản. Giấy tờ chủ quyền nhà chẳng những là một tờ giấy, tài sản, hơn thế nữa nó có mang chi tiết nhân thân, nội dung cụ thể thể hiện quyền tài sản do đó người bị xâm phạm có quyền yêu cầu khởi kiện đòi lại và toà án phải thụ lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

– Từ chối thụ lý dựa trên hướng dẫn của toà án nhân dân tối cao hoặc viện dẫn tranh chấp không thuộc thẩm quyền toà án đều đi ngược lại nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự quy định ở Điều 4 Luật Tố tụng Dân sự, người dân có quyền khởi kiện dân sự “yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” của mình. Cần xác định rõ toà án có trách nhiệm phải thụ lý tất cả các đơn khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.

– Trong phần chuẩn bị xét xử, thực tiễn, đương sự chỉ khi nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử mới biết mình đã qua các giai đoạn chuẩn bị xét xử. Hiện toà án có thể kéo dài hay quay trở lại giai đoạn thu thập chứng cứ bất cứ khi nào muốn, ngay khi hoà giải, sau khi hoà giải hoặc kể cả khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Cần có quy định về thời hạn cho từng giai đoạn cụ thể, hết thời hạn toà án phải ra thông báo chấm dứt giai đoạn thu thập chứng cứ, giai đoạn hoà giải. Khi hết giai đoạn thu thập chứng cứ thì các bên đương sự và kể cả cơ quan tố tụng không thể tiếp tục cung cấp hoặc yêu cầu/tiến hành thu thập chứng cứ. Tại phiên hoà giải, chỉ tiến hành hoà giải không thu thập thêm lời khai, chứng cứ. Hết giai đoạn hoà giải, bao nhiêu ngày sau toà án phải đưa vụ việc ra xét xử.

– Ngày xét xử phải cách ngày quyết định đưa vụ án ra xét xử ít nhất 22 ngày để bảo đảm quyền có luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi vào thời điểm này. Luật sư phải có ít nhất 7 ngày để sao chụp, nghiên cứu hồ sơ (15 ngày đã dành cho viện kiểm sát: Điều 195 và 262).

– Ở phần đưa vụ án dân sự ra xét xử, người dân đang phải chịu đựng tình trạng toà án thoái thác đưa vụ việc ra xét xử vì lý do chưa đủ chứng cứ, sợ án bị huỷ hoặc thiếu lời khai, sự có mặt đương sự, sợ án vi phạm tố tụng. Khoản 4 Điều 79 Luật Tố tụng Dân sự quy định đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ và phải chịu hậu quả về việc không đưa ra hoặc đưa ra không đủ chứng cứ. Do đó, viện lý do thiếu chứng cứ để không xét xử là áp dụng sai quy định pháp luật, trốn tránh trách nhiệm. Luật Tố tụng Dân sự cũng dành cả một chương X đề quy định về việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng. Nếu toà án từ chối xét xử vì không triệu tập được đương sự để lấy lời khai, hoà giải là thiếu trách nhiệm, chưa áp dụng hết các quy định pháp luật. Cần có quy định ràng buộc toà án, sau khi đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử, phải có trách nhiệm đưa vụ án ra xét xử, không được từ chối xét xử với lý do sợ án bị huỷ, án vi phạm tố tụng.

– Để đảm bảo quyền tiếp cận pháp luật và quyền được xét xử nhanh chóng, đúng pháp luật của người dân, trong khi chờ đợi đợt sửa đổi luật tố tụng dân sự tới, nhiều ý kiến cho rằng các cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là toà án nhân dân tối cao cần lắng nghe ý kiến đa chiều, công khai minh bạch xây dựng và ban hành hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn luật tố tụng dân sự, khắc phục từng hạn chế nói trên và gương mẫu thực thi các quy định pháp luật.

Kết luận, nếu mỗi văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành là những bước tiến đến đỉnh cao học thuật pháp lý, thì Luật TTDS2011 gồm vài bước tới ngắn và những bước lui dài.

Rõ ràng Luật TTDS2011 đã bỏ lỡ một cơ hội tốt để kiện toàn hệ thống pháp luật nước nhà, góp phần canh tân đất nước.

____________

(1) Văn bản số 2289/VKSTC-V8 góp ý dự án luật TTDS2011

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ ĐOÀN LUẬT SƯ TPHCM

Trích dẫn từ: http://www.hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?CatPK=4&NewsPK=202

00
Exit mobile version