Site icon THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Về tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam SAU GẦN 5 NĂM THÍ ĐIỂM HOẠT ĐỘNG

Advertisements

TS. ĐINH LA THĂNG – Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam

Thực hiện thí điểm hoạt động các tập đoàn kinh tế trong gần 5 năm qua là đưa Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa IX của Đảng vào cuộc sống. Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện mô hình này là đòi hỏi khách quan và thực tiễn để xây dựng những tập đoàn kinh tế mạnh ở Việt Nam đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế, thực hiện tốt mục tiêu bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Chủ trương phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3(khóa IX) có nêu: Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong nước và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông, điện lực, xây dựng…

Triển khai thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005 nhằm thực hiện các mục tiêu: 1 – Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế; 2 – Bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành phần kinh tế khác; 3 – Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong tập đoàn; 4 – Tạo cơ sở để hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về tập đoàn kinh tế.

Mô hình và đặc trưng của các Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Ở những nước khác nhau trên thế giới, tập đoàn kinh tế có những cấu trúc khác nhau. Các tập đoàn kinh tế của Thụy Điển hay Đức đã trải qua nhiều thay đổi lớn, trong đó quan hệ sở hữu đan xen và cấu trúc hình kim tự tháp dần biến mất. Ở Nhật Bản, các tập đoàn kinh tế được tổ chức hoặc theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang và phát triển tùy theo các ngành nghề; các tập đoàn gồm một ngân hàng, một công ty mẹ hoặc một công ty thương mại và một nhóm các hãng sản xuất. Ở Hàn Quốc, các tập đoàn kinh tế thường được kiểm soát bởi một gia đình hoặc một nhóm ít gia đình và được tổ chức thống nhất theo chiều dọc. Các tập đoàn kinh tế ở Trung Quốc lại phát triển theo cấu trúc riêng biệt, đó là các tập đoàn kinh tế đa ngành quy mô lớn có mối ràng buộc chặt chẽ với Nhà nước chứ không phải với các gia đình riêng biệt như ở Hàn Quốc.

Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, tập đoàn kinh tế là nhóm các công ty có quy mô lớn. Chính phủ quy định, hướng dẫn tiêu chí, tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn kinh tế. Đến nay, Chính phủ đã thành lập 12 tập đoàn kinh tế nhà nước theo hai mô hình, đó là:

Tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và 91): gồm 10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam.

– Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: gồm 2 tập đoàn là Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng, Tổng công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư phát triển xây dựng, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ tầng. Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam được thành lập trên cơ sở tổ hợp từ: Tổng công ty Phát triển nhà và đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng, Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng, Tổng công ty Đầu tư xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam.

Các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam có các đặc trưng sau:

Một là, được hình thành chủ yếu từ việc chuyển đổi và tổ chức lại các tổng công ty nhà nước theo quyết định của Chính phủ.

Hai là, hoạt động trong những ngành kinh tế mũi nhọn, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế theo mục tiêu chiến lược phát triển của từng tập đoàn mà tư nhân và các thành phần kinh tế khác khó có thể thực hiện được do hạn chế về năng lực tài chính hoặc kinh nghiệm quản lý; là một trong những công cụ điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ.

Ba là, hoạt động theo mô hình công ty mẹ – công ty con (chuyển từ quan hệ hành chính trong tổng công ty nhà nước trước đây sang quan hệ về đầu tư vốn); quy mô và khả năng tích tụ vốn có trình độ cao hơn và quy mô lớn hơn so với các tổng công ty trước đây (trước khi chuyển đổi sang mô hình tập đoàn); phạm vi hoạt động được mở rộng không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài.

Bốn là, hợp tác và liên kết kinh doanh giữa các đơn vị trong tập đoàn kinh tế được nâng cao; quan hệ chặt chẽ giữa các đơn vị thành viên về đầu tư vốn và tài chính, thị trường, phân công chuyên môn hóa, nghiên cứu và phát triển, thể hiện rõ nét đặc trưng quan hệ giữa các doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn kinh tế.

Năm là, quan hệ nội tại của tập đoàn kinh tế nhà nước bao gồm:

– Công ty mẹ (gọi tắt là doanh nghiệp cấp I) là doanh nghiệp do Nhà nước giữ 100% vốn hoặc giữ quyền chi phối theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ;

– Công ty con của doanh nghiệp cấp I (gọi tắt là doanh nghiệp cấp II) là các doanh nghiệp do doanh nghiệp cấp I giữ quyền chi phối; được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên trở lên, tổng công ty theo hình thức công ty mẹ – công ty con, công ty liên doanh (trong trường hợp chưa đăng ký lại theo Luật Doanh nghiệp), công ty con ở nước ngoài;

– Công ty con của doanh nghiệp cấp II và các cấp tiếp theo;

– Các doanh nghiệp liên kết của tập đoàn gồm: doanh nghiệp có vốn góp dưới mức chi phối của công ty mẹ và của công ty con; doanh nghiệp không có vốn góp của công ty mẹ và của công ty con, tự nguyện tham gia liên kết dưới hình thức hợp đồng liên kết hoặc không có hợp đồng liên kết, nhưng có mối quan hệ gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ khác với công ty mẹ hoặc doanh nghiệp thành viên trong tập đoàn.

– Công ty mẹ và các doanh nghiệp thành viên tập đoàn có tư cách pháp nhân; có vốn và tài sản riêng; có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận chung của tập đoàn. Nhà nước là chủ sở hữu vốn nhà nước trực tiếp đầu tư tại công ty mẹ. Công ty mẹ là chủ sở hữu vốn nhà nước tại các công ty con, doanh nghiệp liên kết.

Sáu là, quan hệ giữa tập đoàn với bộ, ngành và Chính phủ: Nhà nước là chủ sở hữu của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam. Chính phủ thống nhất thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước đối với công ty mẹ và đối với phần vốn nhà nước tại tập đoàn kinh tế nhà nước; Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập công ty mẹ, quyết định tổ chức lại, giải thể, chuyển đổi sở hữu công ty mẹ theo đề nghị của bộ quản lý ngành và ý kiến của các bộ, ngành có liên quan; Thủ tướng Chính phủ giao bộ quản lý ngành, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và hội đồng quản trị tập đoàn thực hiện một số quyền của chủ sở hữu theo pháp luật hiện hành, theo Điều lệ tổ chức và hoạt động của từng tập đoàn.

Bảy là, quản lý, giám sát đối với tập đoàn kinh tế nhà nước được thực hiện theo các phương thức: Thông qua chế độ báo cáo của hội đồng quản trị công ty mẹ; thông qua thực hiện kiểm toán tại công ty mẹ và các đơn vị thành viên; thông qua thực hiện chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất của công ty mẹ; thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát, đánh giá của các cơ quan theo quy định của pháp luật.

Vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Sau khi được hình thành và đi vào hoạt động, các tập đoàn kinh tế đã tích cực đầu tư, mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động; cơ cấu lại và đa dạng hóa sở hữu các đơn vị thành viên; kinh doanh đa ngành, trong đó tập trung vào ngành nghề chính; huy động được các nguồn lực để thực hiện các mục tiêu trọng điểm, các chiến lược phát triển quan trọng; tích cực nghiên cứu, triển khai ứng dụng và chuyển giao công nghệ mới vào sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật, tay nghề của đội ngũ công nhân kỹ thuật và người lao động trong các doanh nghiệp, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng thành tập đoàn kinh tế mạnh, có tầm cỡ trong khu vực, làm nòng cốt để Việt Nam chủ động và thực hiện có hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Vai trò tích cực của các tập đoàn kinh tế đối với sự phát triển kinh tế đất nước thể hiện ở những mặt sau:

Thứ nhất, góp phần quan trọng vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế đất nước, tạo nguồn ngoại tệ và nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, hạn chế nhập siêu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, thực hiện vai trò chi phối, bảo đảm việc sản xuất, cung ứng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế; là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế (được thể hiện rõ nhất là trong giai đoạn 2008 – 2009, khi đất nước phải đối phó với những diễn biến bất lợi và ảnh hưởng xấu từ suy thoái kinh tế thế giới và khu vực đối với nền kinh tế quốc dân), bảo đảm cân đối cung – cầu và giữ ổn định giá các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế (xăng dầu, điện, đạm, khí hóa lỏng, than…) để bình ổn thị trường, kiềm chế lạm phát, chống giảm phát.

Thứ ba, là đầu tàu đi trước, mở đầu, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế phát triển.

Thứ tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế trên cơ sở huy động, tập trung các nguồn lực, tăng nhanh năng lực sản xuất, đầu tư trong các ngành đòi hỏi công nghệ cao và nhu cầu vốn lớn, lĩnh vực then chốt.

Thứ năm, thực hiện sự gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học – công nghệ, đào tạo và sản xuất, kinh doanh.

Thứ sáu, cùng với việc tập trung mở rộng phát triển ở trong nước, các tập đoàn kinh tế đã vươn ra đầu tư mạnh ở nước ngoài, thương hiệu ngày càng được khẳng định, góp phần tạo dựng được hình ảnh và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Thứ bảy, là lực lượng quan trọng của Nhà nước trong việc bảo đảm an ninh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và khẳng định chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, bảo vệ môi trường.

Thứ tám, là lực lượng chủ lực cùng Chính phủ và xã hội thực hiện các chương trình an sinh xã hội vì cộng đồng.

Một số vấn đề cần khắc phục

Thực tiễn hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong thời gian qua đã khẳng định thành công bước đầu trong việc thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng và mục tiêu thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước của Chính phủ. Tuy nhiên, mô hình tập đoàn kinh tế ở Việt Nam còn mới mẻ, vì vậy các tập đoàn kinh tế cũng bộc lộ một số vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, đó là:

– Được thành lập, liên kết bằng quyết định hành chính, một số tập đoàn là biến thể của mô hình tổng công ty cũ, nên chưa thực hiện được mục tiêu đề ra là trở thành tập đoàn kinh tế mạnh.

– Quy mô và nguồn vốn quá nhỏ so với các tập đoàn kinh tế trong khu vực và trên thế giới; tổ chức và hoạt động chưa có đổi mới nhiều so với tổng công ty nhà nước trước đây, chưa tạo được sự đột phá mạnh mẽ cho mô hình tập đoàn kinh tế.

– Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa được hoàn thiện, chưa tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng của chủ sở hữu nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế; cơ chế quản lý tập đoàn còn nhiều bất cập.

– Kết quả sản xuất, kinh doanh của một số tập đoàn chưa tương xứng với đầu tư của Nhà nước, hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động còn thấp, sức cạnh tranh chưa đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.

– Việc thực hiện huy động vốn, nguồn lực của các thành phần kinh tế khác vào sản xuất, kinh doanh thông qua cổ phần hóa, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty cổ phần mới tạo ra cơ cấu đa sở hữu ở một số tập đoàn triển khai còn chậm; dẫn tới hạn chế về thu hút thêm vốn, kinh nghiệm quản lý, điều hành và sự giám sát của xã hội đối với hoạt động của tập đoàn kinh tế.

– Một số tập đoàn có tỷ lệ nợ trên vốn còn quá cao, dẫn đến độ rủi ro lớn, khả năng thanh toán nợ thấp. Việc xử lý các tồn tại về tài chính còn chậm do nhiều nguyên nhân nhưng chưa được khắc phục.

– Một số tập đoàn chưa phát huy được vai trò chi phối trong lĩnh vực hoạt động. Các mô hình tổ chức quản lý mới triển khai còn chậm; ở một số tập đoàn vẫn duy trì biện pháp quản lý hành chính đối với các công ty con.

– Công tác dự báo, giám sát, đánh giá đối với hoạt động của các tập đoàn kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của mô hình này.

– Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên trong các tập đoàn cần phải được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.

Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Do đó, yêu cầu phát triển kinh tế trong thời kỳ tới không chỉ là nâng cao tốc độc tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại mà còn cần tạo ra và phát huy những lợi thế so sánh để chủ động cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời tạo ra những những bước đột phá về kinh tế, bứt khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và quốc tế. Thực tế khách quan này và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam đã được khẳng định sau 5 năm hoạt động thí điểm đặt ra yêu cầu thực tiễn là phải sớm nghiên cứu hoàn thiện và tiếp tục phát triển mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn mới để có được những tập đoàn kinh tế mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.

Giải pháp hoàn thiện mô hình hoạt động của tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam

Để bảo đảm tính bền vững của sự phát triển tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn mới, có đặc thù riêng (là hoạt động trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước) so với các tập đoàn kinh tế các nước trong khu vực và trên thế giới, một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện là:

1 – Tiếp tục nghiên cứu sâu hơn và quán triệt thực hiện nghiêm túc các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

2 – Tổ chức tổng kết đánh giá kết quả hoạt động để chỉ ra những tồn tại, yếu kém, đúc kết những điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và thách thức, tích lũy những kinh nghiệm tốt từ hoạt động thực tiễn thời gian qua của các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam; kết hợp với thực hiện nghiên cứu một cách toàn diện về các mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu trên thế giới để có thể tìm ra một hoặc một số mô hình tập đoàn kinh tế phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của nước ta, trên cơ sở đó tìm ra hướng đi phù hợp cho các tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam trong giai đoạn tiếp.

3 – Nhà nước xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước; các tập đoàn kinh tế nhà nước rà soát lại chiến lược phát triển của từng tập đoàn để có những điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

4 – Kiện toàn công tác quản lý của Nhà nước và thực hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với tập đoàn. Hình thành mới một cơ quan của Chính phủ quản lý thống nhất mọi mặt hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thực hiện ủy quyền tối đa cho hội đồng thành viên tập đoàn trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để các tập đoàn chủ động, quyết định kịp thời và chịu trách nhiệm về các vấn đề lớn trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, đầu tư và đấu thầu đối với những vấn đề đòi hỏi phải có quyết định nhanh chóng, không để lỡ những cơ hội sản xuất, kinh doanh; thường xuyên sửa đổi, bổ sung Điều lệ tổ chức và hoạt động, Quy chế tài chính của tập đoàn cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của tập đoàn theo từng giai đoạn, từng thời kỳ phát triển.

5 – Thực hiện thường xuyên việc tái cấu trúc doanh nghiệp theo hướng tập trung vào lĩnh vực kinh doanh chủ chốt; tránh cạnh tranh nội bộ, bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển tương ứng với mô hình phát triển của các tập đoàn.

6 – Đẩy mạnh tập trung và tích tụ vốn, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư đan xen (trên cơ sở bảo đảm kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ở những lĩnh vực, ngành nghề then chốt) thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa, cơ cấu lại nguồn vốn, tiếp nhận doanh nghiệp thành viên, cùng các thành phần kinh tế khác thành lập các công ty mới… để tạo cơ cấu đa sở hữu nhằm phát huy thế mạnh và tăng cường khả năng cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.

7 – Lựa chọn các đánh giá, nhận định có chất lượng cả về lý luận và thực tiễn từ nhiều góc độ của các chuyên gia có nhiều kinh nghiệm ở trong nước và nước ngoài để có những giải pháp khắc phục hạn chế, phát huy những ưu điểm.

8 – Sớm hoàn thiện và kịp thời có những hướng dẫn cụ thể các căn cứ pháp lý bảo đảm cho hoạt động của các tập đoàn kinh tế, có các chính sách linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ để tạo điều kiện cho các tập đoàn kinh tế nhà nước hoạt động bình đẳng trong sân chơi cạnh tranh.

9 – Gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế và bảo đảm quốc phòng. Đẩy mạnh thực hiện gắn kết giữa nghiên cứu, triển khai, ứng dụng khoa học, đào tạo và sản xuất kinh doanh, bảo đảm môi trường sinh thái. Tăng cường phát triển thương hiệu, văn hóa doanh nghiệp, tích cực chia sẻ những khó khăn với cộng đồng và xã hội.

10 – Nâng cao vai trò, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của tổ chức công đoàn và đoàn thanh niên đối với các hoạt động của các tập đoàn./.

SOURCE: TẠP CHÍ CỘNG SẢN ĐIỆN TỬ SỐ 22 (214) NĂM 2010

Exit mobile version