admin@phapluatdansu.edu.vn

BÁO CÁO TÓM TẮT CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG về kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và đề xuất cho Việt Nam (Hồ sơ dự án Luật Bảo vệ người tiêu dùng)

A. PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI

I. Luật bảo vệ người tiêu dùng của một số quốc gia

1. Tổng quan

Qua nghiên cứu pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của một số quôc gia trên thế giới, Bộ Công Thương nhận thấy có thể phân thành 2 nhóm:

– Nhóm nước không ban hành luật bảo vệ người tiêu dùng mà các quy định về bảo vệ người tiêu dùng nằm rải rác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành khác.

– Nhóm quốc gia và vùng lãnh thổ ban hành đạo luật riêng về bảo vệ người tiêu dùng như Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Hồng Kông, Ấn Độ, Nga, Nauy, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Anh.

Nhìn lại lịch sử quá trình phát triển của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng (BVNTD) ở các nước phát triển, có thể thấy rằng, các đạo luật về BVNTD được ban hành đầu tiên chủ yếu vào thập niên 1950-1970. Đây là thời kỳ mà phong trào BVNTD trở thành một trong những chủ điểm kinh tế, chính trị quan trọng.

Ví dụ, tại Hoa Kỳ, trong thập niên 1960-1970 hàng loạt đạo luật về BVNTD sau đây được ban hành: Luật Liên bang về các chất nguy hại năm 1960 (the Federal Hazardous Substances Act of 1960), Luật về đóng gói và ghi nhãn công bằng năm 1966 (The Fair Packaging and Labeling Act of 1966), Luật về tính trung thực trong hoạt động cho vay năm 1968 (The Truth in Lending Act of 1968), Luật về tiết lộ thông tin đầy đủ trong các giao dịch bất động sản liên bang năm 1968 (The Interstate Land Sales Full Disclosure Act of 1968), Luật đảm bảo an toàn đồ chơi cho trẻ em năm 1969 (The Child Protection and Toy Safety Act of 1969), Luật về báo cáo tín dụng công bằng năm 1970 (The Fair Credit Reporting Act of 1970), Luật về san toàn sản phẩm tiêu dùng năm 1972 (The Consumer Product Safety Act of 1972), Luật về cơ hội tín dụng bình đẳng năm 1974 (The Equal Credit Opportunity Act of 1974), Luật bảo hành Magnuson Moss năm 1975 (Magnuson Moss Warranty Act of 1975), Luật về hành vi đòi nợ công bằng năm 1977 (The Fair Debt Collection Practices Act of 1977) v.v.

Cũng trong giai đoạn đó, Nhật Bản ban hành Luật cơ bản về BVNTD (năm 1968) còn Úc ban hành Luật về các hành vi thương mại năm 1974 (the Trade Practices Act of 1974) với nhiều quy định về BVNTD. Tại Anh Quốc, hàng loạt đạo luật về BVNTD sau đây được ban hành: Luật thuê mua năm 1964 (Hire-purchase Act of 1964), Luật về thông tin sai lạc trong thương mại năm 1967 (Misrepresentation Act of 1967), Luật về các mô tả thương mại năm 1968 (Trade Descriptions Acts of 1968), Luật về cung ứng hàng hoá, dịch vụ ngoài ý muốn của NTD năm 1971 (Unsolicited Goods and Services Act of 1971), Luật thương mại công bằng năm 1973 (Fair Trading Act of 1973), Luật về các điều khoản mặc nhiên trong hợp đồng cung ứng hàng hoá năm 1973 (Supply of Goods (Implied Terms) Act of 1973), Luật về tín dụng tiêu dùng năm 1974 (Consumer Credit Act of 1974), Luật về các điều khoản hợp đồng không công bằng năm 1977 (Unfair Contract Terms Act of 1977), Luật về an toàn tiêu dùng năm 1978 (Consumer Safety Act of 1978).

2. Những quy định cơ bản trong pháp luật bảo vệ NTD của một số nước trên thế giới

Sau khi nghiên cứu Luật BVNTD của 15 nước trên thế giới[2], bên cạnh các nội dung mang tính đặc thù như: an toàn NTD, xung đột pháp luật, trách nhiệm đối với sản phẩm… do sự khác nhau về điều kiện phát triển kinh tế, xã hội cũng như hệ thống pháp luật của mỗi nước thì pháp luật bảo vệ NTD của các nước đều có quy định đến một số nội dung cơ bản như:

2.1. Về khái niệm người tiêu dùng

Theo nghiên cứu quy định của 15 nước thì có hai cách quy định về thế nào là người tiêu dùng

– Cách quy định thứ nhất chỉ quy định là thể nhân (hoặc cá nhân), đây là cách quy định của Châu Âu và Quebec. Cách quy định này thể hiện rõ luật bảo vệ NTD chỉ bảo vệ đối với cá nhân, còn pháp nhân do họ có những vị thế và điều kiện tốt hơn so với cá nhân trong quan hệ với nhà cung cấp nên luật bảo vệ NTD không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ.

– Cách quy định thứ hai là quy định rõ cả thể nhân và pháp nhân, đây là cách quy định của Hàn Quốc. Theo quy định này thì NTD bao gồm cả pháp nhân. Quy định này tuy có vẻ hơi rộng và có thể có quan điểm cho rằng nó sẽ làm loãng đi hiệu lực của Luật bảo vệ NTD. Tuy nhiên cách quy định này đã khắc phục được hạn chế của cách quy định thứ nhất vì không phải lúc nào pháp nhân cũng là người đủ khả năng để đối mặt được với các vi phạm từ phía nhà sản xuất kinh doanh và hậu quả là nếu Luật bảo vệ NTD không bảo vệ họ như đối với các cá nhân tiêu dùng khác thì quyền lợi của một nhóm đối tượng khá lớn trong xã hội bị xâm phạm, gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.

2.2. Về các quyền của người tiêu dùng

Ngày 9 tháng 4 năm 1985, nhờ có những cố gắng vận động không ngừng của Tổ chức Quốc tế Liên minh NTD (nay đã đổi tên thành Quốc tế NTD), Liên Hợp Quốc đã thông qua một tập hợp Các Nguyên tắc chỉ đạo về Bảo vệ NTD (bằng Nghị quyết số 39/248 của Đại Hội Đồng LHQ). Các nguyên tắc này sau đó được sửa đổi vào năm 1999. Các nguyên tắc này nêu lên các quyền lợi và nhu cầu của NTD trên toàn thế giới và tạo ra một khuôn khổ mà theo đó các chính phủ, đặc biệt là chính phủ các nước đang phát triển hoặc vừa giành được độc lập, có thể sử dụng để soạn thảo, hay củng cố chính sách và pháp luật bảo vệ NTD tại quốc gia họ.

Bản Nguyên tắc này của LHQ đã vạch ra tám (08) lĩnh vực cơ bản có thể phát triển các chính sách bảo vệ NTD, nay được chuyển thành tám (08) quyền cơ bản của NTD, bao gồm: Quyền được thoả mãn các nhu cầu cơ bản, Quyền được an toàn, Quyền được chọn lựa, Quyền được thông tin, Quyền được giáo dục tiêu dùng, Quyền được giải quyết và bồi thường thiệt hại, Quyền được đại diện, Quyền được hưởng một môi trường lành mạnh.

Quy định của các quốc gia về các quyền cơ bản của NTD có một điểm chung nhất là hầu hết đều tôn trọng và cố gắng đi sát các quyền đề ra theo Các nguyên tắc chỉ đạo về bảo vệ NTD của Liên Hợp Quốc năm 1985. Điểm khác biệt giữa các quốc gia này chủ yếu ở hai điểm:

– Có quốc gia nêu vắn tắt các quyền cơ bản này (như trường hợp của Liên bang Nga, hay Thái Lan), có quốc gia nêu cụ thể và giải thích chi tiết (như trường hợp của Trung Quốc); và

– Các quốc gia chọn các tập hợp quyền khác nhau trong số 8 quyền cơ bản do LHQ đề xuất để đưa vào luật quốc gia của mình. Điểm khác biệt thứ hai có thể được lý giải là do điều kiện thực tế, ý thức hệ chính trị và ưu tiên của từng quốc gia. Các quyền được hầu hết các quốc gia phân tích đưa vào luật bảo vệ NTD của họ gồm có quyền được an toàn, quyền được chọn lựa, quyền được thông tin, quyền được giao kết hợp đồng công bằng, quyền được giáo dục tiêu dùng, quyền được khiếu nại và bồi thường thiệt hại, và quyền được đại diện.

2.3. Các hành vi thương mại không công bằng

Hành vi thương mại không công bằng (unfair practices in commerce or unfair commercial practices or unfair business practices) được hiểu bao gồm hành vi gây nhầm lẫn, lừa dối khách hàng (fraud, misrepresentation, misleading practices) và cưỡng bức, lạm dụng đối với NTD (aggressive practices).

Hành vi thương mại không công bằng có thể phát sinh trong nhiều lĩnh vực trong đó có các lĩnh vực như mua sắm hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng, thuê nhà ở, hợp đồng bảo hiểm, dịch vụ đòi nợ thuê v.v. Hình thức chế tài chủ yếu đối với doanh nghiệp có hành vi thương mại không công bằng là buộc bồi thường thiệt hại, buộc bồi thường có tính trừng phạt, buộc phải trả chi phí pháp lý cho các kiện tụng có liên quan của nguyên đơn.

Quy định về hành vi thương mại không công bằng với tư cách là một nhóm quy phạm bảo vệ NTD được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận.

Cqua nghiên cứu các nước có thể thấy chế định về hành vi thương mại không công bằng được quy định khá phổ biến trong Luật Bảo vệ NTD của nhiều quốc gia. Về cơ bản, có 3 dạng hành vi thương mại không công bằng bị cấm là:

(1) Những hành vi cung cấp các thông tin sai sự thật, gây nhầm lẫn (về bất cứ vấn đề gì liên quan đến giao dịch tiêu dùng như liên quan đến nhân thân của thương nhân, liên quan đến bản thân hàng hoá, dịch vụ, liên quan đến bản chất giao dịch, liên quan tới các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có liên quan đến hợp đồng, liên quan đến giá cả, liên quan đến chế độ hậu mãi v.v.);

(2) Những hành vi che giấu hoặc không cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho NTD khiến NTD không có đủ thông tin cần thiết cho việc ra các quyết định liên quan đến giao dịch tiêu dùng;

(3) Thực hiện các hành vi mang tính cưỡng bức, lạm dụng đối với NTD.

2.4. Hợp đồng tiêu dùng

Nhiều nước trên thế giới tiếp cận vấn đề bảo vệ người tiêu dùng thông qua chế định hợp đồng tiêu dùng. Bởi vì, xét cho cùng người tiêu dùng và tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tương tác với nhau chủ yếu thông qua quan hệ hợp đồng. Trong quan hệ này, xét về tính chuyên nghiệp cũng như những vấn đề khác thì rõ ràng là người tiêu dùng sẽ ở vào tình trạng yếu thế hơn so với các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ.

Một số hình thức bán hàng mà người tiêu dùng dễ bị vi phạm như hợp đồng bán hàng từ xa, hợp đồng bán hàng tận cửa, hợp đồng cung ứng dịch vụ liên tục,…cần phải có những quy định đặc thù để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.

Điều này càng thể hiện rõ đối với người tiêu dùng Việt Nam do trình độ, nhận thức còn nhiều hạn chế. Thực tiễn công tác bảo vệ người tiêu dùng cho thấy trong rất nhiều trường hợp người tiêu dùng bị xâm phạm quyền lợi của mình khi giao kết, thực hiện hợp đồng tiêu dùng. Tình trạng áp đặt những điều kiện bất lợi đưa ra những quy định trong hợp đồng nhằm hạn chế hoặc loại bỏ quyền của người tiêu dùng trở nên phổ biến. Do vậy, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần phải có những quy định cụ thể để bảo vệ người tiêu dùng thông qua quan hệ hợp đồng.

2.5. Các quy định về bảo hành

Do bảo hành là một bộ phận của trách nhiệm pháp lý (liability) phát sinh trong các quan hệ giữa NTD và nhà sản xuất, hay nhà cung cấp dịch vụ, người bán nên có nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa các quy định về vấn đề này thành một bộ phận của Luật BV NTD của họ. Vài ví dụ tiêu biểu có thể nêu lên ở đây là các quy định của trong luật của Cộng đồng Châu Âu (EU), của Canada, và Malaysia.

2.6. Cơ chế giải quyết tranh chấp cho người tiêu dùng

Nhìn chung quy định các nước đều sử dụng ba phương thức giải quyết tranh chấp cơ bản là thương lượng, hòa giải và Tòa án.

– Thương lượng: Trình tự thương lượng giữa NTD và doanh nghiệp theo pháp luật các nước quy định có khác nhau.

Theo quy định của Đài Loan, NTD có thể nộp đơn khiếu nại đến doanh nghiệp kinh doanh, nhóm bảo vệ NTD, hoặc trung tâm dịch vụ tiêu dùng hoặc các chi nhánh trực thuộc của doanh nghiệp. Luật của Trung Quốc quy định chi tiết hơn trong đó quy định trách nhiệm của các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng hàng hóa dịch vụ trong đó có cả những người như tổ chức hội chợ, cho thuê quầy hàng và quảng cáo.

– Thông qua Tòa án: Đây là phương thức giải quyết cơ bản và có giá trị thi hành cao nhất tại tất cả các quốc gia. Về bản chất, tranh chấp giữa NTD và doanh nghiệp là tranh chấp dân sự, do đó Tòa án luôn có thẩm quyền xét xử các tranh chấp này và không có bất cứ phương thức giải quyết nào có thể tước bỏ hay làm chậm đi quyền sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp này. Tuy nhiên, do phương thức này được quy định tại pháp luật Tố tụng dân sự nên Luật bảo vệ NTD không thể đưa ra các quy định lại về vấn đề này. Luật chỉ có thể có những quy định đặc thù như khởi kiện tập thể, quyền khởi kiện của tổ chức bảo vệ NTD. Đối với những vấn đề còn lại, Luật có thể viện dẫn tới quy định của pháp luật Tố tụng dân sự hiện hành.

– Hòa giải tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

Trình tự hòa giải tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền được nhắc tới trong Luật bảo vệ NTD các nước với mức độ khác nhau. Luật của Trung Quốc có nhắc tới phương thức “Trình lên các cơ quan phân xử để giải quyết theo thỏa thuận với người kinh doanh” nhưng không có quy định cụ thể về phương thức này như trình tự thủ tục, thẩm quyền của cơ quan và giá trị pháp lý của phương thức giải quyết này.

Quy định về trình tự giải quyết tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của theo Luật bảo vệ NTD Hàn Quốc là tương đối đầy đủ. Luật quy định những trường hợp cơ quan giải quyết được nhận khiếu nại, chủ thể nộp đơn khiếu nại. Ngoài ra Luật còn quy định mối quan hệ giữa trình tự hòa giải với trình tự thương lượng và giải quyết tại Tòa án, theo đó trình tự thương lượng giữa các bên được ưu tiên, nếu các bên đã sử dụng phương thức thương lượng nhưng không đạt được kết quả thì phương thức hòa giải sẽ được áp dụng.

Một ưu điểm khác trong quy định về giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo Luật bảo vệ NTD Hàn Quốc là giá trị pháp lý của quyết định giải quyết tranh chấp. Theo quy định tại Điều 67, nếu các bên đồng ý với việc giải quyết của hội đồng thì bản giải quyết đó có giá trị như bản hòa giải của Tòa án.

2.7. Trách nhiệm sản phẩm

Việc sản phẩm hàng hoá có khuyết tật ngay từ giai đoạn sản xuất được đưa vào lưu thông và sau đó gây thiệt hại cho NTD về tính mạng, sức khoẻ, tài sản v.v. cũng là vấn đề được phản ánh trên báo chí nước ta thời gian qua. Chẳng hạn, trên thực tế đã từng xảy ra các vụ việc liên quan đến sử dụng vaccine tiêm chủng gây chết người, việc trẻ em sử dụng đồ chơi nguy hiểm, việc sử dụng các loại mỹ phẩm gây dị ứng v.v.

Các quốc gia có quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản phẩm có khuyết tật gây ra thường loại bỏ nghĩa vụ chứng minh lỗi của sản phẩm cho người tiêu dùng. Nếu trước đây (giống như pháp luật Việt Nam hiện tại), NTD phải chứng minh lỗi của nhà sản xuất vì đã gây ra thiệt hại thì nay NTD chỉ phải chứng minh sự tồn tại của khuyết tật trong sản phẩm (một vấn đề khách quan, có thể chứng minh bằng các thí nghiệm hoặc xét nghiệm cần thiết) (ngoài việc chứng minh thiệt hại thực tế và mối quan hệ giữa thiệt hại thực tế với khuyết tật).

Rõ ràng, việc giảm nhẹ gánh nặng chứng minh đó sẽ làm cho việc quy kết trách nhiệm đối với nhà sản xuất được đơn giản hơn và do đó, NTD có cơ hội nhiều hơn, có động lực tốt hơn để tiến hành khởi kiện quy trách nhiệm cho nhà sản xuất.

Khi NTD có động lực tốt hơn trong việc tiến hành khởi kiện quy trách nhiệm cho nhà sản xuất, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về trách nhiệm sản phẩm sẽ được nâng lên. Hệ quả dây chuyền sẽ là nhà sản xuất sẽ phải cẩn trọng hơn trong việc thiết kế, sản xuất sản phẩm của mình, đảm bảo rằng, sản phẩm làm ra ít hoặc không có khuyết tật, sản phẩm làm ra sẽ an toàn hơn đối với NTD. Nhà sản xuất cũng phải làm tốt hơn trách nhiệm cảnh báo cho NTD về các loại nguy hiểm có thể xảy ra đối với NTD trong quá trình sử dụng sản phẩm.

II. Thiết chế bảo vệ người tiêu dùng của các nước [3]

1. Các hệ thống thiết chế bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu trên thế giới

Hệ thống thiết chế BVNTD thường chia làm hai bộ phận chính:

– Nhóm các cơ quan quản lý nhà nước: bao gồm các cơ quan chuyên trách về BVNTD và các bộ phận BVNTD trong các cơ quan điều tiết ngành.

– Nhóm các tổ chức xã hội phi chính phủ: thường là các Hội/Hiệp hội BVNTD tại trung ương và các địa phương.

1.1. Về các cơ quan quản lý nhà nước

Hệ thống cơ quan nhà nước bảo vệ quyền lợi NTD được cấu thành bởi hai nhóm cơ quan chính là các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và hệ thống các cơ quan tư pháp. Xuất phát từ bản chất của quan hệ giữa NTD và tổ chức cá nhân sản xuất kinh doanh (doanh nghiệp) là quan hệ tư, do đó nó sẽ được điều chỉnh chủ yếu bởi hệ thống pháp luật tư. Tuy nhiên, quá trình hàng hóa dịch vụ từ nơi sản xuất đến với NTD là một quá trình phức tạp, ngay cả khi NTD đã sử dụng hàng hóa dịch vụ thì các hành vi của doanh nghiệp vẫn chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật công, mục tiêu của sự can thiệp này từ phía nhà nước là để đảm bảo trật tự công.

Qua nghiên cứu mô hình của các nước trên thế giới, có thể phân loại các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng thành 2 hệ thống:

a. Hệ thống cơ quan hình chóp

Đây là mô hình được các nước và vùng lãnh thổ như Đài Loan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Thái Lan, Úc áp dụng. Theo mô hình này, hệ thống các cơ quan BVNTD được tổ chức thành hệ thống với một cơ quan dạng Ủy ban hoặc Hội đồng trực thuộc Chính phủ hoặc Quốc hội (như USFTC của Hoa Kỳ và ACCC của Úc).

Đối với các nước như Hoa Kỳ hoặc Úc, cơ quan BVNTD là cơ quan có quyền lực lớn trong hoạt động BVNTD. Là các cơ quan trực thuộc quốc hội, vị trí của các cơ quan này tương đối độc lập và có thẩm quyền yêu cầu các cơ quan chuyên ngành khác thuộc chính phủ phối hợp và giải quyết thỏa đáng các khiếu nại của NTD. Tại các quốc gia này, pháp luật BVNTD tiếp cận theo cách sử dụng sức mạnh của thị trường để bảo vệ lợi ích của NTD nên vai trò của các cơ quan này là vừa trực tiếp bảo vệ quyền lợi NTD, vừa đem lại lợi ích cho NTD thông qua việc bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh. Tại hai cơ quan này, BVNTD không phải là chức năng duy nhất nhưng là một trong các chức năng chính. Tuy nhiên xét về lĩnh vực BVNTD thì cơ quan này vẫn là cơ quan có thẩm quyền cao nhất.

Đối với các nước và vùng lãnh thổ như Đài Loan, Thái Lan, Nhật Bản, cơ quan này là một Ủy ban hoặc Hội đồng (mô hình của Nhật) thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Ủy ban). Về cấp hành chính thì hội đồng này là cơ quan thuộc chính phủ và do đó ngang với các Bộ ngành khác, tuy nhiên đứng đầu Ủy ban là Thủ tướng hoặc phó thủ tướng và các thành viên Ủy ban là người đứng đầu các Bộ ngành khác cho nên trong lĩnh vực BVNTD, có thể nói Ủy ban này là cơ quan có quyền lực lớn nhất. Cơ quan này có thẩm quyền ban hành các chính sách và lập kế hoạch BVNTD sau đó phân bổ các kế hoạch cho các ngành và chính quyền địa phương thực hiện. Trong quá trình thực thi các chính sách và kế hoạch BVNTD đó, Ủy ban có chức năng giám sát, yêu cầu thực hiện và đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan này.

Nhìn chung, theo mô hình hình chóp này, cơ quan BVNTD là một cơ quan chuyên môn độc lập, có vị trí cao trong tổ chức bộ máy nhà nước và có tiếng nói đối với các cơ quan khác trong hoạt động BVNTD. Cơ quan này thường không trực tiếp giải quyết các khiếu nại NTD và trên thực tế thì với nguồn lực và mô hình như vậy, việc giải quyết trực tiếp các vụ việc xâm phạm quyền lợi NTD cụ thể là không khả thi. Do vậy, chức năng này thường được giao cho các bộ ngành và đặc biệt là phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương và Ủy ban đóng vai trò là cơ quan giám sát việc thực hiện.

– Ưu điểm:

+ Cơ quan chịu trách nhiệm chính trong lĩnh vực BVNTD có quyền lực lớn, có quyền yêu cầu và giám sát việc thực hiện của các cơ quan khác

+ Tính chuyên môn hóa của các cơ quan cao

+ Thuận lợi cho việc thống nhất kế hoạch BVNTD cho các ngành và địa phương

+ Thuận lợi cho việc đánh giá và báo cáo hoạt động BVNTD

– Nhược điểm:

+ Tổ chức trong Chính phủ thêm cồng kềnh do phát sinh thêm một cơ quan.

b. Hệ thống cơ quan hạt nhân

Đây là mô hình mà các nước như Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc, Pháp, Hàn Quốc, Singapore, Canada áp dụng. Theo mô hình này, cơ quan có chuyên môn BVNTD là một cơ quan thuộc Bộ. Tại các nước này, thông thường cơ quan BVNTD được thành lập dưới dạng Cục hoặc Vụ thuộc các bộ có chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, thương mại và công nghiệp.

Trong công tác bảo vệ quyền lợi NTD, các cơ quan này có chức năng điều tra và xử lý các hành vi vi phạm quyền lợi NTD. Các bộ ngành khác có nhiệm vụ phối hợp chặt chẽ với cơ quan BVNTD để xử lý các hành vi vi phạm và giám sát chất lượng hàng hóa dịch vụ trên thị trường nhằm đảm bảo an toàn cho NTD.

Về mặt tổ chức, do là cơ quan thuộc Bộ nên cơ quan BVNTD theo mô hình này không có thẩm quyền giám sát cũng như áp đặt nhiệm vụ cho các cơ quan khác trong hệ thống thiết chế BVNTD. Tuy nhiên với những công cụ đắc lực như các trung tâm nghiên cứu, giám định cùng với các thẩm quyền điều tra và xử lý, các cơ quan này có vị trí hạt nhân trong công tác BVNTD và các cơ quan khác có trách nhiệm phối hợp hành động để cùng đạt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho NTD. Có thể mô hình hóa hệ thống cơ quan BVNTD này như sau:

– Ưu điểm:

+ Tận dụng được hệ thống cơ quan hiện hành, chỉ cần phân định thẩm quyền rõ ràng của các Bộ ngành.

+ Có cơ chế chịu trách nhiệm và phối hợp rõ ràng giữa các cơ quan quản lý chuyên ngành và cơ quan BVNTD

+ Tính chuyên môn hóa của các cơ quan cao, cơ quan BVNTD có chức năng điều tra xử lý hành vi vi phạm quyền lợi NTD.

– Nhược điểm:

+ Không có tính hệ thống, khó cho việc thống nhất kế hoạch BVNTD

+ Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về BVNTD không đủ quyền lực để có thể giám sát hoạt động của các cơ quan khác.

1.2. Tổ chức xã hội về bảo vệ người tiêu dùng

Song song với các mô hình tổ chức thiết chế nói trên, tất cả các quốc gia nói trên đều phát triển và sử dụng hiệu quả hệ thống tổ chức xã hội trong công tác BVNTD. Các tổ chức này được thành lập theo mô hình phi chính phủ, hoạt động vì lợi ích của cộng đồng và mục tiêu là bảo vệ quyền lợi NTD. Điểm chung của tổ chức BVNTD tại các quốc gia này đó là tính hiệu quả và quy mô hoạt động lớn. Các tổ chức này vừa được sự hỗ trợ từ phía nhà nước (ở mức độ hạn chế) vừa có thể tự tìm nguồn thu cho hoạt động của mình từ sự ủng hộ của xã hội, xuất bản các ấn phẩm BVNTD và đặc biệt tại các nước như Canada, Hoa Kỳ và Đức, tổ chức BVNTD có quyền khởi kiện tập thể và nếu thắng kiện họ có thể giữ lại một phần tiền bồi thường để xây dựng quỹ hoạt động.

Về hoạt động BVNTD, các tổ chức này đóng vai trò là con mắt của xã hội để phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm quyền lợi NTD và sau đó là phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi đó. Ngoài ra, pháp luật BVNTD các nước đều trao cho tổ chức các quyền được kiểm tra, giám sát, kiểm nghiệm chất lượng hàng hóa dịch vụ trên thị trường và họ có quyền khởi kiện các tổ chức này ra Tòa.

Cũng mang tính xã hội hóa công tác giám sát hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường nhằm bảo vệ quyền lợi NTD, mô hình quỹ bảo hiểm trách nhiệm trong lĩnh vực bán hàng trực tiếp tại Hàn Quốc cũng là một điển hình. Theo quy định của pháp luật Hàn Quốc, các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bán hàng trực tiếp phải ký hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm với một doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo hiểm này có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho NTD do doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bán hàng trực tiếp gây ra và do dó doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm này có quyền giám sát các hoạt động tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp kinh doanh bán hàng trực tiếp. Trong trường hợp các doanh nghiệp này có những hành vi vi phạm pháp luật thì doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm có quyền chấm dứt hợp đồng bảo hiểm và thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều này có nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực bán hàng trực tiếp sẽ không thể tiếp tục được hoạt động trên thị trường. Sau khi hệ thống quy định này ra đời, pháp luật Hàn Quốc loại bỏ dần các quy định về điều kiện kinh doanh cũng như cơ chế giám sát của nhà nước đối với hoạt động bán hàng trực tiếp, mọi hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực này tập trung vào các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo hiểm trách nhiệm. Như vậy, đây là một mô hình xã hội hóa công tác quản lý nhà nước liên quan đến BVNTD, nhà nước tiết kiệm được rất nhiều nguồn lực mà hiệu quả quản lý được nâng lên cao hơn.

Tuy nhiên, theo quy định của một số nước như Pháp, Hàn Quốc, các tổ chức xã hội về BVNTD muốn thành lập phải đáp ứng một số yêu cầu cơ bản và phải được sự đồng ý của các Cơ quan quản lý nhà nước về BVNTD.

Ngoài ra, sau khi được thành lập, một số hoạt động của các tổ chức này sẽ được nhà nước hỗ trợ kinh phí hàng năm.

B. ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM

1. Đề xuất các nội dung quy định trong Dự thảo Luật

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trên thế giới đồng thời cân nhắc thực trạng Việt Nam hiện nay, Bộ Công Thương cho rằn Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam nên tiếp cận theo hướng:

– Đối với các quy định về tiêu chuẩn, an toàn của người tiêu dùng hiện đang được điều chỉnh tại các văn bản pháp luật khác thì sẽ quy định theo hướng dẫn chiếu.

– Đối với các vấn đề liên quan đến bảo vệ người tiêu dùng chưa được quy định tại các văn bản nào như: bảo mật thông tin cá nhân, hợp đồng tiêu dùng, trách nhiệm đối với sản phẩm… hoặc quy định không rõ ràng thì sẽ được làm rõ tại Dự thảo Luật BVNTD lần này.

– Làm rõ cơ chế giải quyết tranh chấp cho người tiêu dùng

Theo đó, Bộ Công Thương xin đề xuất một số nội dung cơ bản sau đây nên được xem xét đưa vào Luật bảo vệ quyền lợi NTD của Việt Nam. bao gồm:

– Các quy định chung: giải thích từ ngữ, các quyền cơ bản của NTD, nghĩa vụ của thương nhân)

– Các quy định liên quan đến hợp đồng tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ

– Các quy định về trách nhiệm sản phẩm và bảo hành sản phẩm

– Các quy định về hành vi thương mại không công bằng

– Các quy định về cơ chế giải quyết tranh chấp của NTD

– Các quy định về xử lý hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ NTD.

2. Về cơ quan bảo vệ người tiêu dùng

2.1. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng

Qua nghiên cứu ưu điểm và nhược điểm của các mô hình cơ quan BVNTD các nước nói trên, đồng thời phân tích thực trạng cơ quan BVNTD tại Việt Nam hiện nay, Bộ Công Thương cho rằng để khắc phục những bất cập và đáp ứng được những nhu cầu của thực tiễn công tác BVNTD tại Việt Nam, trong thời gian tới, khi thiết kế xây dựng các cơ quan BVNTD Việt nam phải đảm bảo đáp ứng các yêu cầu sau:

– Thứ nhất, do BVNTD là một lĩnh vực rất rộng, liên quan đến nhiều Bộ/ngành nên để đảm bảo sự thống nhất và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan liên quan này, hệ thống cơ quan BVNTD tại Việt Nam phải có chỉ đạo xuyên suốt từ trên xuống. Cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm chính phải được trao đủ thẩm quyền để chỉ đạo và giám sát việc thực hiện công tác BVNTD của các cơ quan khác, tránh hiện tượng đùn đẩy và thiếu trách nhiệm giữa các cơ quan

– Thứ hai, các cơ quan trong hệ thống này phải được quy định về trách nhiệm và quan hệ phối hợp hoạt động rõ ràng trong công tác BVNTD.

– Thứ ba, trong từng cơ quan chuyên ngành có liên quan như y tế, tiêu chuẩn chất lượng…. cũng phải thành lập một bộ phận chuyên trách về BVNTD để đảm nhiệm các công việc như tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng, tham mưu kịp thời cho các cấ trong việc triển khai cũng như phối hợp trong công tác BVNTD.

– Thứ tư, hệ thống cơ quan BVNTD phải được phát triển mạng lưới ở tất cả các địa phương trên toàn quốc để việc xử lý, triển khai công tác BVNTD được thực hiện một cách nhanh chóng kịp thời. Đây là một yêu cầu thực sự cấp bách đối với hệ thống cơ quan BVNTD. Thực tế cho thấy, các khiếu nại, tố cáo của NTD thường xuất hiện tại khắp các địa phương, do đó các cơ quan quản lý nhà nước tại trung ương khó có thể tiếp nhận và xử lý hết được. Vì vậy, các cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo phải được phát triển tại địa phương và phải được từng bước chuyên nghiệp hóa.

2.2. Đề xuất hoàn thiện tổ chức xã hội về bảo vệ người tiêu dùng

Từ những hạn chế của các tổ chức BVNTD của Việt nam, Bộ Công Thươ kiến nghị một số giải pháp sau:

a. Trao thêm thẩm quyền cho các tổ chức xã hội về BVNTD

Để hoạt động của các tổ chức BVNTD phát huy được hiệu quả trên thực tế Nhà nước cần giao cho các tổ chức này thực hiện một số nhiệm vụ sau:

– Tư vấn hướng dẫn cho người tiêu dùng: Các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được phép thành lập các Văn phòng tư vấn và hướng dẫn cho người tiêu dùng. Nhiệm vụ của các Văn phòng này là hướng dẫn, giải đáp thắc mắc cho người tiêu dùng trong quá trình người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cũng như quá trình khiếu nại của người tiêu dùng. Các Văn phòng tư vấn này đặt tại các chợ, trung tâm thương mại và chịu sự quản lý của Ban quản lý chợ, trung tâm thương mại đó.

– Khởi kiện vì lợi ích của người tiêu dùng: Trong một số vụ việc ảnh hưởng lớn đến quyền lợi người tiêu dùng thì các tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền khởi kiện ra Tòa án có thẩm quyền để đòi bồi thường thiệt hại. Các tổ chức này được miễn tạm ứng án phí khi thực hiện việc khởi kiện. Trong trường hợp thắng kiện, tổ chức BVNTD được hưởng tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị đòi được. Đối với khoản giá trị còn lại, tổ chức BVNTD có nhiệm vụ thông báo công khai để những người tiêu dùng mua, sử dụng hàng hóa dịch vụ của tổ chức cá nhân thua kiện đến để được bồi thường. Trong một khoảng thời gian nhất định nếu không có người tiêu dùng đến nhận thì khoản tiền này sẽ được sung quỹ nhà nước hoặc có thể giao cho tổ chức BVNTD giữ và sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình.

b. Nhà nước cần có phương án hỗ trợ kinh phí cho các tổ chức BVNTD đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hiệu quả hoạt động của các tổ chức này

Để đảm bảo cho các tổ chức BVNTD hoạt động có hiệu quả và thực hiện tốt các nhiệm vụ như đã nói ở trên thì Nhà nước cần có phương án hỗ trợ về mặt kinh phí cho các tổ chức này. Tuy nhiên, Nhà nước không thể đảm bảo hỗ trợ toàn bộ kinh phí cho tất cả các tổ chức BVNTD mà chỉ nên hỗ trợ cho một số tổ chức căn cứ trên cơ sở đóng góp của tổ chức đó đối với người tiêu dùng.

c. Đẩy mạnh việc mở rộng, phát triển các tổ chức BVNTD đồng thời kêu gọi sự ủng hộ của xã hội đối với hoạt động của các tổ chức này

Thực tế cho thấy, mô hình tổ chức của các tổ chức BVNTD ở Việt Nam hiện nay là rất nghèo nàn, không phù hợp với sự phong phú, đa dạng của công tác BVNTD cũng như không phát huy được sức mạnh của xã hội trong hoạt động này. Kinh nghiệm của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới như Pháp, Hàn Quốc, Đài Loan…tổ chức BVNTD được tổ chức dưới rất nhiều loại hình khác nhau như: Hội BVNTD (Consumer Protection Associations), Nhóm BVNTD (Consumer Protection Team), Câu lạc bộ BVNTD (Consumer Protection Club)…Vấn đề ở đây không chỉ là tên gọi của các tổ chức này mà là mục tiêu, đối tượng hướng đến cũng như phương pháp hoạt động của các tổ chức này là khác nhau. Thực tế ở Việt Nam cũng đang tồn tại một số mô hình như vậy điển hình là Câu lạc bộ chống hàng giả và BVNTD của Báo Sài Gòn Giải Phóng (SACC). Câu lạc bộ này ra đời dựa trên nhu cầu cần được hướng dẫn và nhu cầu thông tin của người tiêu dùng. Mặc dù không đăng ký hoạt động chính thức nhưng SACC được tổ chức rất chặt chẽ, hoạt động chuyên nghiệp và hết sức hiệu quả. Chính vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế để các tổ chức BVNTD ra đời nhằm tận dụng sức mạnh của toàn xã hội trong công tác này.


[1] Báo cáo tóm tắt này được xây dựng trên cơ sở hai nghiên cứu chuyên đề: “So sánh pháp luật bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới – bài học kinh nghiệm và đề xuất những nội dung cơ bản trong Dự thảo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam” (116 trang) và “Thiết chế bảo vệ người tiêu dùng: Thực trạng Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và định hướng hoàn thiên” (127 trang)

[2] Thái Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Hồng Kông, Ấn Độ, Nga, Nauy, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Anh

[3] Chi tiết xin xem tại Báo cáo nghiên cứu “Thiết chế bảo vệ người tiêu dùng: thực trạng Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và định hướng hoàn thiện”

SOURCE: DUTHAOONLINE.QUOCHOI.VN

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading