PSG.TS. NGUYỄN NHƯ BÌNH – Khoa Kinh tế & Kinh doanh Quốc tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội
1.1. HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG: NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT
1.1.1. Thương mại quốc tế và hội nhập toàn cầu
Thương mại quốc tế có lịch sử lâu đời. Từ thời trung cổ đã có hoạt động giao lưu buôn bán giữa các quốc gia trong phạm vi từng khu vực cũng như giữa Đông và Tây. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến sự bùng nổ của thương mại quốc tế, gắn liền với chủ nghĩa thực dân cũ cướp bóc và nô dịch thuộc địa. Trong suốt các thế kỷ 16, 17 và 18, lý thuyết trọng thương có vai trò thống trị trong việc giải thích về thương mại quốc tế. Thế kỷ 19 với sự ra đời của lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith, nhất là lý thuyết lợi thế so sánh của D. Ricardo, thương mại thế giới đã được dẫn dắt theo một chiều hướng khác: chuyên môn hóa và trao đổi, điều đó sẽ mang lại lợi ích cho các quốc gia tham gia thương mại quốc tế và cho nền kinh tế thế giới.
Hệ thống thương mại đa phương đã được thiết lập cùng với việc ký kết Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại vào năm 1947 (GATT 1947). Các lý thuyết thương mại quốc tế đã dẫn dắt và cổ vũ cho xu hướng tự do hóa thương mại trong hệ thống thương mại đa phương. Kể từ năm 1948 đến nay, thương mại quốc tế đã có những bước phát triển nhảy vọt. Năm 1948, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của thế giới đạt 58 tỷ USD và tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 62 tỷ USD. Các con số tương ứng về tổng kim ngạch xuất khẩu và tổng kim ngạch nhập khẩu của năm 1980 là 2.034 tỷ USD và 2.075 tỷ USD, năm 1990 là 3.449 tỷ USD và 3.550 tỷ USD, năm 2000 là 6.452 tỷ USD và 6.724 tỷ USD, và năm 2005 là 10.431 tỷ USD và 10.783 tỷ USD1.
Những thập kỷ gần đây đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của toàn cầu hóa. Xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra do nhu cầu hợp tác ngày càng gia tăng giữa các quốc gia trên thế giới. Toàn cầu hóa nói chung đã thúc đẩy sự phát triển của thương mại quốc tế. Ngược lại trên thực tế thương mại quốc tế, đặc biệt với sự xuất hiện của hệ thống thương mại đa phương, đã có đóng góp rất quan trọng trong việc đẩy nhanh tiến trình toàn cầu hóa. Theo tác giả Bordo, Taylor và Williamson 2, đứng trên giác độ sự vận động của các luồng thương mại, vốn và di cư, trong lịch sử cận đại đã có bốn làn sóng toàn cầu hóa với những đặc trưng khác nhau. Làn sóng thứ nhất diễn ra từ năm 1870 cho đến khi bắt đầu chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Làn sóng thứ hai diễn ra trong thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới. Làn sóng thứ ba diễn ra từ năm 1945 cho đến khoảng năm 1980. Làn sóng thứ tư từ năm 1980 cho đến nay.
Đặc trưng của làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất là việc giảm chi phí vận tải nhờ sự phát triển của hệ thống đường sắt và vận tải biển và việc giảm các rào cản thương mại. Nhờ đó thương mại quốc tế được mở rộng mạnh mẽ thông qua việc trao đổi hàng hóa ở khoảng cách xa hơn và xuyên lục địa. Thời kỳ này còn chứng kiến sự di chuyển vốn quốc tế và những làn sóng di cư từ châu Âu sang châu Mỹ và châu Úc.
Thời kỳ của làn sóng toàn cầu hóa thứ hai là thời kỳ của những rối loạn và khủng hoảng kinh tế. Chủ nghĩa bảo hộ đã làm suy giảm thương mại và di chuyển vốn quốc tế. Trong làn sóng toàn cầu hóa thứ ba tự do hóa thương mại được phục hồi dẫn đến sự tăng trưởng vượt bậc của thương mại và đầu tư quốc tế. Tuy nhiên trong khi thương mại giữa các nước phía Bắc (các nước công nghiệp phát triển) được tự do hóa một cách căn bản thì thương mại Bắc-Nam còn bị ngăn cản bởi những rào cản cả ở các nước đang phát triển và các nước công nghiệp, nhất là đối với các sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm công nghiệp nhẹ. Thương mại Bắc-Bắc chủ yếu là thương mại nội bộ ngành còn thương mại Nam- Bắc chủ yếu là thương mại của việc trao đổi khoáng sản và nông sản để đổi lấy các mặt hàng công nghiệp.
Ở làn sóng toàn cầu hóa thứ tư, các rào cản thương mại Nam-Bắc được dỡ bỏ một cách đáng kể và các nước đang phát triển tham gia mạnh mẽ vào thương mại quốc tế. Đặc trưng nữa của giai đoạn này là thương mại của thế giới tăng trưởng nhanh hơn GDP của thế giới. Cơ cấu thương mại cũng có sự thay đổi một cách căn bản. Rất nhiều nước đang phát triển đã thoát khỏi tình trạng xuất khẩu nông sản và khoáng sản để đổi lấy hàng công nghiệp. Bởi vậy tỷ trọng hàng công nghiệp chế tạo trong hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển đã tăng lên một cách đáng kể. Trong giai đoạn này đầu tư nước ngoài cũng có những tăng trưởng vượt bậc. Tuy nhiên thành quả toàn cầu hóa không phải được chia đều cho các nước đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển và kém phát triển chưa tham gia mạnh mẽ và có hiệu quả vào quá trình toàn cầu hóa, do vậy chưa được hưởng lợi nhiều từ toàn cầu hóa. Một số nghiên cứu cho rằng toàn cầu hóa hiện nay đang có dấu hiệu chững lại.3
Như vậy toàn cầu hóa bên cạnh việc mang lại những lợi ích và cơ hội phát triển mới cho các quốc gia còn làm nảy sinh những khó khăn và thách thức cho các nước, đặc biệt là các nước nghèo. Những khó khăn và thách thức nổi bật đó là làm thế nào để phát triển năng lực sản xuất một cách bền vững, cần đa dạng hóa sản xuất như thế nào để bù đắp lại sự suy giảm của hệ số thương mại, bằng cách nào để đáp ứng được nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng, làm thế nào để khai thác những tiến bộ khoa học và công nghệ để đẩy nhanh sự phát triển. Các tổ chức quốc tế cũng như Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đang có những nỗ lực giúp các nước nghèo được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa.
1.1.2. Thương mại và các hiệp định thương mại
Mục này sẽ phân tích các lý do về mặt kinh tế khiến một nước tham gia các hiệp định Thương mại quốc tế và trình bày một cách tổng quan về lịch sử của các hiệp định Thương mại quốc tế cũng như vai trò của chúng đối với thương mại quốc tế. Các hiệp định Thương mại quốc tế đã có lịch sử lâu đời, tuy nhiên với mục tiêu của cuốn sách, tác giả chỉ giới hạn sự xem xét của mình ở trình bày các hiệp định Thương mại được ký kết sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Đồng thời trong phạm vi của chương này, tác giả cũng không đi sâu trình bày các qui tắc của GATT và WTO liên quan đến các hiệp định Thương mại khu vực, bởi vì nhiệm vụ này sẽ được giải quyết ở các chương sau của cuốn sách.
Trên góc độ kinh tế, có hai lý do chính để một nước tham gia các hiệp định Thương mại quốc tế:
Thứ nhất, xét về mặt lịch sử, trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II, các nước đua nhau bảo hộ thương mại và thực thi các chính sách mà kinh tế học quốc tế gọi là “chính sách lợi mình hại người” (beggar-thy- neighbor, các chính sách biến hàng xóm thành kẻ ăn mày). Các hiệp định Thương mại đa phương được ký kết sau chiến tranh có thể giúp các nước giảm thiểu được ảnh hưởng tiêu cực của các chính sách này, cũng có nghĩa là tăng lợi ích của các nước tham gia Hiệp định thương mại. Sự giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực và tăng lợi ích đó có được nhờ sự ràng buộc của việc thực thi các cam kết và các qui tắc trong GATT và WTO. Chẳng hạn như là việc thực thi các cam kết giảm thuế, đặt ra các ràng buộc về thuế quan, dỡ bỏ hạn ngạch, giảm thiểu các rào cản phi thuế quan, thực thi nguyên tắc không phân biệt đối xử, minh bạch và có thể dự đoán, ưu đãi hơn cho các nước đang và kém phát triển v.v…
Thứ hai, việc tham gia các hiệp định Thương mại sẽ thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế, làm cho thương mại trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế. Điều đó được minh chứng bởi các lý thuyết kinh tế học cũng như thực tiễn phát triển kinh tế của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó trên thực tế các Chính phủ thường gặp nhiều khó khăn khi đưa ra một quyết sách về thương mại liên quan đến khu vực tư nhân. Những quyết sách đó có thể ảnh hưởng tới quyền lợi của một nhóm lợi ích. Chẳng hạn quyết định giảm bảo hộ bằng cách giảm thuế nhập khẩu và cho phép phía nước ngoài gia nhập thị trường nội địa tự do hơn. Những quyết định như vậy thường gặp phải sự chống đối mãnh liệt của các doanh nghiệp trong nước. Trong trường hợp này việc tham gia các hiệp định quốc tế sẽ giúp Chính phủ dễ dàng hơn trong việc đưa ra các quyết định, các chính sách về thương mại liên quan đến khu vực tư nhân. Đây cũng là một lý do quan trọng của việc gia nhập WTO của Việt Nam cũng như của nhiều nước khác.
Hợp tác thương mại truyền thống trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II chủ yếu là hợp tác song phương giữa các quốc gia với nhau. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II xuất hiện thêm các hình thức hợp tác mớilà hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại đa phương. Hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại song phương (một hình thức của hợp tác thương mại khu vực) có vai trò bổ sung và củng cố cho hợp tác thương mại đa phương. Nhờ đó hệ thống thương mại hoạt động có hiệu quả hơn và trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của các hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại song phương cũng đặt ra những thách thức đối với hệ thống thương mại đa phương, như việc quản trị mối quan hệ giữa các hợp tác thương mại khác trong hệ thống thương mại đa phương, sự ưu tiên lựa chọn của các nước Thành viên đối với hợp tác song phương và hợp tác khu vực khi đàm phán trong hệ thống thương mại đa phương rơi vào bế tắc.
Các hình thức hợp tác thương mại khác nhau nêu trên được củng cố và phát triển nhờ các hiệp định thương mại. Một cách tổng quan, các hiệp định Thương mại được phân ra các hiệp định Thương mại đa phương và các hiệp định Thương mại ưu đãi hay các hiệp định Thương mại khu vực (gồm Hiệp định Thương mại của khu vực thương mại tự do, liên minh hải quan, liên minh kinh tế). Căn cứ để phân loại các hiệp định Thương mại này là nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN), hay nói đúng hơn là cách thức thực thi nguyên tắc MFN, của GATT và WTO. Hiệp định Thương mại đa phương dựa trên qui tắc chung của nguyên tắc tối huệ quốc, có nghĩa là khi một nước mở cửa thị trường cho một Thành viên thì phải mở cửa thị trường ngay lập tức và không điều kiện cho tất cả các Thành viên khác mà không yêu cầu phải có sự đàm phán của mọi đối tác thương mại. Tuy nhiên qui tắc tối huệ quốc cũng cho phép được duy trì các ngoại lệ ưu đãi hơn trong các hiệp định Thương mại khu vực (RTAs) mà các nước đã ký với nhau trước khi gia nhập GATT/WTO. Đối với các hiệp định Thương mại khu vực, việc thực thi nguyên tắc MFN đạt được thông qua đàm phán và thỏa thuận của mọi đối tác thương mại để đi đến một Hiệp định chung.
Các hiệp định Thương mại đa phương gắn liền với việc ra đời của GATT 1947. Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại được ký kết vào năm 1947 có thể coi là Hiệp định Thương mại đa phương đầu tiên. Việc kết thúc Vòng đàm phán Uruguay vào năm 1994 dẫn đến sự ra đời của WTO đã đánh dấu một bước phát triển về chất của hệ thống Hiệp định Thương mại đa phương. Trong khuôn khổ của WTO, một loạt các hiệp định đa phương và các hiệp định nhiều bên đã được ký kết và có hiệu lực trên thực tế. Các hiệp định này đã tạo cơ sở pháp lý cũng như thể chế hoá và củng cố hệ thống thương mại đa phương.
Vai trò của các hiệp định Thương mại khu vực đối với thương mại khu vực thể hiện ở hai điểm: thứ nhất, nó khuyến khích tự do hoá thương mại; thứ hai, nó tạo cơ sở pháp lý cho việc ra đời các khối thương mại. Cơ sở pháp lý cho việc ra đời các khối thương mại còn được củng cố nhờ các qui tắc của GATT và WTO. Trong GATT (cũng như trong các hiệp định của WTO) có các điều khoản ngoại lệ về ưu đãi khi thực hiện nguyên tắc MFN. Điều XXIV của GATT còn đưa ra các điều kiện cho việc hình thành các liên minh hải quan và khu vực thương mại tự do.
Một trong các khối thương mại ra đời sớm nhất vào năm 1951 là Cộng đồng than thép châu Âu (ESCC), gồm sáu nước Đức, Hà Lan, Bỉ, Lucxembourg, Ý và Pháp. ESCC phát triển thành Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) vào năm 1958. Với việc ký kết Hiệp định Maastricht để thành lập Liên minh châu Âu (EU) vào năm 1992, EU đã ra đời thay thế EEC và chính thức đi vào hoạt động vào ngày 1 tháng 11 năm 1993. Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) được ký kết vào năm 1992 dẫn đến sự ra đời của khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ gồm Canada, Mỹ và Mêhicô. Năm 1992 các nước ASEAN ký kết Hiệp định thành lập khu vực thương mại do ASEAN (AFTA). Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 1 tháng 1 năm 1993. Đến nay khu vực thương mại tự do ASEAN, về cơ bản, đã hình thành với việc bảy nước ASEAN (Thái Lan, Xingapore, Indonesia, Malaysia, Brunây, Philippines và Việt Nam) đã hoàn thành chương trình cắt giảm thuế quan đối với hầu hết các hàng hóa trừ một số ít hàng hóa thuộc diện tạm thời chưa cắt giảm và loại trừ hoàn toàn. Các khối thương mại và kinh tế điển hình khác gồm: Cộng đồng Andex (ANCOM), Liên minh châu Phi (AU), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng và thị trường chung Caribê (CARICOM), Cộng đồng kinh tế và tiền tệ Trung Mỹ (CEMAC), Thị trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng Đông Phi (EAC), Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Trung Phi (ECCAS), Khu vực thương mại tự do các nước châu Mỹ (FTAA), Khu vực thương mại tự do Mỹ latinh (LAFTA), Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR),
Hiệp định Thương mại của các quốc đảo Thái Bình Dương (PICTA), và Cộng đồng hợp tác khu vực Nam Á (SAARC). Sự gia tăng ký kết các hiệp định Thương mại khu vực đã làm cho thương mại nội vùng trở nên rất quan trọng, chiếm tới 40% nhập khẩu của thế giới vào năm 2000 và 50% vào năm 20054.
Hiệp định Thương mại song phương là Hiệp định được ký kết giữa hai thực thể chính trị, bởi vậy chỉ có giá trị ràng buộc hai bên ký kết. Các quốc gia và các khối kinh tế – thương mại chủ chốt của thế giới hiện nay như Mỹ, EU, Nhật Bản, Singapore, v.v… đều có khuynh hướng coi trọng ký kết các hiệp định Thương mại song phương và Hiệp định Thương mại tự do song phương. Mỹ đã ký kết các hiệp định Thương mại tự do với nhiều nước như Israel, Jordanie, Morocco, Chilê, Singapore, Hàn Quốc, Úc.5 Đến nay EU đã ký các hiệp định Thương mại tự do với nhiều nước và vùng lãnh thổ như Đan Mạch, Thụy Sỹ, Mêhicô, Nam Phi, Israel v.v…6 Ở Đông Á, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc (ACFTA). Để xúc tiến việc thi hành Hiệp định này, các nước ASEAN và Trung Quốc đã thống nhất thực hiện chương trình thu hoạch sớm (EHP). Khi khu vực thương mại tự do này trở thành hiện thực thì đây sẽ là khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới.
Việt Nam, theo Vụ Pháp chế, Bộ Thương mại, đến nay đã ký kết 74 Hiệp định Thương mại song phương với các nước và vùng lãnh thổ. Trong số các hiệp định đó, Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) là một trong các hiệp định có vai trò quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng thương mại của Việt Nam. Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết vào tháng 7 năm 2000 và có hiệu lực vào tháng 12 năm 2001. Với Hiệp định này, thuế suất đánh vào hàng hoá nhập khẩu từ Việt Nam trong biểu thuế của Hoa Kỳ đã chuyển từ cột
2 (không ưu đãi MFN) sang cột 1 ở mức ưu đãi chung (MFN), với mức giảm bình quân khoảng 40%. Bởi vậy BTA đã tạo ra sự nhảy vọt trong xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ hiện nay là nước nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Hiện nay Việt Nam đang xúc tiến đàm phán để ký kết Hiệp định Thương mại tự do với Nhật Bản.
1.1.3. Chức năng của hệ thống thương mại đa phương
Như đã nhắc tới ở phần trên, với việc ký kết Hiệp định GATT, hệ thống thương mại đa phương đã chính thức được khai sinh. Đây là hệ thống thương mại có phạm vi toàn cầu với sự tham gia của các nước và các nền kinh tế của các châu lục. Khác với thương mại khu vực và thương mại song phương, được điều chỉnh bởi các qui tắc được qui định trong các hiệp định Thương mại khu vực và song phương, hệ thống thương mại đa phương được điều chỉnh bởi các qui tắc được qui định trong GATT trước đây và trong các hiệp định của WTO ngày nay. Hệ thống thương mại đa phương có các chức năng cơ bản sau:
– Xóa bỏ sự phân biệt đối xử. Việc xóa bỏ sự phân biệt đối xử này được bảo đảm bằng qui tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) được quy định trong Hiệp định GATT năm 1947 và trong các hiệp định của WTO. Không phân biệt đối xử đặc biệt có lợi cho các nước đang phát triển và kém phát triển, là những nước có vị thế yếu trên trường thương mại quốc tế.
– Ràng buộc các nước Thành viên trong một khuôn khổ chung bởi các qui tắc tự do hóa thương mại. Thực tế từ năm 1947 đến nay hệ thống thương mại đa phương đã vận hành theo xu hướng này thông qua việc các Thành viên của WTO thống nhất cắt giảm các rào cản thương mại và mở cửa thị trường.
– Giải quyết các tranh chấp thương mại. Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ II, chủ nghĩa bảo hộ hoành hành dẫn đến nguy cơ không thể giải quyết được một cách hiệu quả các tranh chấp thương mại. Hệ thống thương mại đa phương, do vậy, có chức năng kiểm soát các tranh chấp thương mại phát sinh trong hệ thống. Trên thực tế, việc thực thi các cam kết trong khuôn khổ của GATT và nhất là WTO đã xây dựng những cơ chế có hiệu quả để thực hiện chức năng này.
– Hỗ trợ phát triển. Hệ thống thương mại đa phương tạo ra những cơ chế phù hợp để mang lại lợi ích và các cơ hội phát triểncho các Thành viên, đặc biệt là các Thành viên đang phát triển và kém phát triển. Tham gia vào hệ thống thương mại đa phương, các Thành viên đang phát triển và kém phát triển sẽ có cơ hội được hưởng những đối xử bình đẳng và cả những quy định có tính đối xử đặc biệt và khác biệt dành cho các nước đang và kém phát triển. Điều đó sẽ tạo ra những động lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế ở các nước này.
1.1.4. Lịch sử hình thành WTO
Trong lịch sử phát triển của mình, thương mại quốc tế đã trải qua những giai đoạn thăng trầm và bị chi phối nặng nề bởi chủ nghĩa bảo hộ. Thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939), thương mại quốc tế bị đình trệ do các biện pháp bảo hộ được áp dụng một cách tràn lan. Thuế nhập khẩu cao là một đặc trưng nổi bật của thời kỳ này. Điển hình là Đạo luật thuế quan Smooth Hawley năm 1930 của Mỹ. Trước khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực, xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ cũng bị áp thuế suất theo đạo luật này. Các biện pháp phi thuế quan được áp dụng phổ biến đã tạo ra những rào cản ngăn cản thương mại tự do. Điều đó dẫn đến sự trả đũa và tình trạng không kiểm soát được việc áp dụng các công cụ bảo hộ của chính sách thương mại quốc tế. Hệ quả của nó là các cuộc chiến tranh thương mại và sự suy thoái của thương mại quốc tế ở thập niên 30 của thế kỷ XX.
Vào thời điểm sắp kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, các quốc gia chủ chốt trên thế giới đã có những nỗ lực nhằm thiết lập những định chế đa phương để giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như duy trì hòa bình thế giới và giải trừ quân bị, hỗ trợ công cuộc tái thiết và phát triển, thúc đẩy thương mại quốc tế. Những nỗ lực đó đã dẫn đến sự ra đời của một loạt các tổ chức quốc tế còn hoạt động đến ngày nay như Liên hiệp quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB).
Về vấn đề thương mại quốc tế, xu hướng đẩy mạnh tự do hóa thương mại đã nổi lên mạnh mẽ ngay khi chiến tranh vừa kết thúc. Vào tháng 12/1945, đã có 15 nước bắt đầu bàn thảo về giảm thuế quan và đặt ràng buộc thuế quan (binding). Tiếp theo đã có hơn 50 nước tham gia đàm phán về việc thành lập một tổ chức, gọi là Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO). ITO dự kiến hoạt động với tư cách là một cơ quan chuyên môn của Liên hiệp quốc. Bản Hiến chương về việc thành lập ITO, Hiến chương Havana, đã được soạn thảo tại Hội nghị Havana (Cuba) khai mạc vào ngày 21/11/1947, và hoàn tất cũng tại Havana vào tháng 03/1948. Tuy nhiên Hiến chương Havana đã không được nhiều nước, trong đó có Hoa Kỳ, thông qua. Do vậy ITO đã không thể hình thành với tư cách là một tổ chức thương mại quốc tế.
Bên cạnh việc đàm phán thành lập ITO, 23 nước đã tiến hành đàm phán về thương mại quốc tế và vào ngày 30 tháng 10 năm 1947, đã đi đến ký kết Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT bao gồm một bộ các qui tắc về thương mại và thỏa thuận cắt giảm đối với 45.000 dòng thuế. 23 nước ký kết GATT được gọi là các bên ký kết (CONTRACTING PARTIES). GATT chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1948 với việc 8 trong số 23 Bên ký kết, trong Nghị định thư về việc thực hiện tạm thời Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (Protocol of Provisional Application of the General Agreement on Tariffs and Trade), đã đồng ý tạm thời thực hiện GATT. Các bên ký kết khác sau đó cũng đã sớm cam kết thực hiện GATT. Với lý do đó GATT vẫn được coi là một Hiệp định tạm thời, nhưng thực tế đã tồn tại gần nửa thế kỷ (từ năm 1948 đến khi WTO ra đời vào năm 1995), về thương mại và thuế quan trong khi chờ đợi một tổ chức quốc tế về thương mại thay thế nó. Tuy không phải là một tổ chức quốc tế về thương mại nhưng GATT là một Hiệp định được soạn thảo và dự định sẽ vận hành trong khuôn khổ của ITO, nếu ITO ra đời và đi vào hoạt động. Mặc dù cuối cùng không đạt tới dự kiến ban đầu đó, nhưng việc ký kết GATT đã dẫn đến sự ra đời của hệ thống thương mại đa phương và đồng thời tạo ra các qui tắc cho hệ thống thương mại đó. Các qui tắc đó tiếp tục được hoàn thiện và phát triển qua tám vòng đàm phán của GATT.
Suốt 47 năm tồn tại của mình, GATT đã có vai trò quản trị hệ thống thương mại đa phương và có những đóng góp to lớn cho sự tăng trưởng vượt bậc của thương mại quốc tế. Vai trò quản trị thương mại toàn cầu của GATT được thực hiện thông qua hai chức năng cơ bản. Thứ nhất, với tính chất là một đạo luật quốc tế, GATT qui định các nghĩa vụ chung buộc các bên ký kết phải tính đến trong quá trình hoạch định chính sách thương mại của mình. Ngoài ra, với việc thực thi các nghĩa vụ và qui tắc được qui định trong GATT cũng như trong các văn kiện sau này đạt được thông qua các vòng đàm phán, các bên ký kết trên thực tế đã chịu sự điều phối chung của GATT. Thứ hai, GATT đã tạo ra một diễn đàn cho các cuộc đàm phán thương mại đa phương.
Tổng cộng GATT có tám vòng đàm phán. Thời gian và nội dung cơ bản của các vòng đàm phán đó được trình bày ở Bảng 1.1 dưới đây:
Bảng 1.1. Các vòng đàm phán thương mại của GATT
Năm
|
Địa điểm/tên
|
Nội dung
|
Số nước tham gia
|
1947
|
Geneva
|
Thuế quan
|
23
|
1949
|
Annnecy
|
Thuế quan
|
13
|
1951
|
Torquay
|
Thuế quan
|
38
|
1956
|
Geneva
|
Thuế quan
|
26
|
1960-1961
|
Geneva
(Vòng Dillon)
|
Thuế quan
|
26
|
1964-1967
|
Geneva
(Vòng Kennedy)
|
Thuế quan và các biện pháp chống bán phá giá
|
62
|
1973-1979
|
Geneva
(Vòng Tokyo)
|
Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, các hiệp định khung
|
102
|
1986-1994
|
Geneva
(Vòng Uruguay)
|
Thuế quan, các biện pháp phi thuế quan, các qui tắc, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, nông nghiệp, thành lập WTO v.v…
|
123
|
Nguồn: http://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tife_/fact4 _e.htm
Như vậy, các nội dung đàm phán của GATT đã được mở rộng từ vòng đàm phán thứ nhất tới vòng đàm phán thứ tám. Năm vòng đàm phán đầu chỉ chuyên về cắt giảm thuế quan. Đàm phán trong thời kỳ này
tiến hành theo cách thức song phương và song song, mỗi nước đàm phán song phương cùng một lúc với nhiều nước. Tuy nhiên, ngoài việc cắt giảm thuế quan, vào năm 1961 trong khuôn khổ của GATT đã đạt được Hiệp định ngắn hạn cho phép áp đặt hạn ngạch đối với xuất khẩu hàng dệt may. Hiệp định ngắn hạn này đến năm 1962 trở thành Hiệp định dài hạn và được áp dụng cho đến khi nó được thay thế bằng Hiệp định Đa sợi (MFA) vào năm 1974. Vòng đàm phán Kennedy đã đạt tới việc cắt giảm đến 50% thuế quan của các ngành công nghiệp chủ yếu, chỉ trừ một số ngành đặc biệt. Về mức thuế, Vòng đàm phán này đã cắt giảm bình quân được 35%. Vòng đàm phán Kennedy đã đưa vào vấn đề chống bán phá giá và đã đạt được một Hiệp định chống bán phá giá của GATT. Vòng đàm phán Tokyo tiếp tục các nỗ lực cắt giảm thuế quan đã đưa vào một công thức cắt giảm thuế quan phức tạp hơn so với Vòng Kennedy, với ưu tiên cắt giảm thuế đỉnh. Kết quả là đã cắt giảm bình quân một phần ba mức thuế quan ở chín thị trường công nghiệp chủ chốt của thế giới, nhờ đó thuế suất bình quân đối với các sản phẩm công nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,7%. Ngoài ra, sự cắt giảm thuế đỉnh còn làm giảm đáng kể sự khác biệt về mức thuế giữa các dòng thuế. Bên cạnh đó một loạt các hiệp định về các biện pháp phi thuế quan cũng đã đạt được trong Vòng đàm phán này.
Vòng đàm phán Uruguay kéo dài suốt tám năm và được coi là Vòng đàm phán thương mại lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Quá trình đàm phán diễn ra không hề suôn sẻ, nhiều khi tưởng chừng đổ vỡ, nhưng cuối cùng đã đi đến thành công. Chương trình nghị sự lúc đầu của Vòng đàm phán này gồm 15 vấn đề được đưa ra đàm phán gồm: thuế quan, các rào cản phi thuế quan, tài nguyên thiên nhiên, dệt may, nông nghiệp, sản phẩm nhiệt đới, các điều khoản của GATT, các văn kiện của Vòng đàm phán Tokyo, chống bán phá giá, trợ cấp, sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư, giải quyết tranh chấp, hệ thống GATT và dịch vụ. Trong quá trình đàm phán, nội dung đàm phán đã được mở rộng ra hầu như tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại. Đàm phán đã đi đến ký kết một bộ văn kiện toàn diện về thương mại quốc tế, với nội dung thương mại được mở rộng sang cả lĩnh vực dịch vụ và sở hữu trí tuệ. Vòng đàm phán này cũng đã đạt tới sự thành công về cải cách thể chế thông qua việc thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hiến chương của WTO, Hiệp định Marrakesh, đã được ký kết vào ngày 15/04/1994. WTO chính thức được khai sinh vào ngày 01/01/1995. WTO đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ.
1.1.5. Lợi ích từ hợp tác thương mại toàn cầu đối với Việt Nam
Hợp tác thương mại toàn cầu bao gồm cả hợp tác thương mại song phương, hợp tác thương mại khu vực và hợp tác thương mại đa phương. Tuy có những khác biệt nhất định giữa các hình thức hợp tác này nhưng chúng có điểm chung là đều hướng tới tự do hoá thương mại. Có thể đánh giá lợi ích của hợp tác thương mại toàn cầu dựa trên quan điểm của kinh tế học quốc tế và dựa trên thực tế thương mại quốc tế. Lợi ích đó có thể được khái quát ở những điểm sau:
– Hưởng những đối xử ưu đãi mà các đối tác thương mại dành cho nhau, nhờ đó mở rộng thị trường cho việc xuất khẩu các sản phẩm sản xuất trong nước. Việc mở rộng thị trường thông qua thương mại quốc tế giúp các ngành có thể tăng hiệu suất theo qui mô, giảm chi phí sản xuất bình quân, nhờ đó tăng hiệu quả sản xuất và kinh doanh. Trong hợp tác thương mại khu vực ASEAN, việc thực hiện Chương trình Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung (CEPT) đã dẫn tới tạo ra khu vực thương mại tự do ASEAN. Về lý thuyết, tham gia khu vực thương mại tự do có thể dẫn đến hiệu ứng tạo lập thương mại cho các nước thành viên, mở rộng thị trường trong khu vực. Việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương với Hoa Kỳ rõ ràng đã giúp mở rộng đáng kể thị trường xuất khẩu của Việt Nam như được nói tới ở phần trên. Trở thành Thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng những đối xử ưu đãi của các Thành viên theo nguyên tắc tối huệ quốc. Dự kiến điều đó sẽ dẫn đến sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới.
– Thương mại quốc tế giúp nền kinh tế Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất sâu hơn, tận dụng được lợi thế so sánh. Nhờ hợp tác thương mại toàn cầu, Việt Nam đã, đang và sẽ khai thác có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên, lao động và đất đai. Hiện nay, khu vực sản xuất hướng về xuất khẩu của Việt Nam đã tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động. Nếu không có thương mại quốc tế, Việt Nam không thể đạt được sản lượng cao như hiện nay ở các ngành sản xuất lúa gạo, cà phê, cao su, may mặc, giày da v.v… Hợp tác thương mại, do vậy, giúp tăng thu nhập quốc dân cũng như thu nhập của người dân, góp phần xoá đói giảm nghèo, biến đổi bộ mặt của đất nước.
– Hợp tác thương mại toàn cầu hướng tới thương mại tự do và nỗ lực giảm thiểu các rào cản thương mại. Điều đó sẽ cho phép các nền kinh tế Thành viên giảm chi phí sản xuất, giảm giá bán đối với bán thành phẩm và thành phẩm dùng cho sản xuất và dịch vụ, giảm giá hàng tiêu dùng, do vậy giảm được chi phí sinh hoạt. Nhờ thương mại quốc tế những người tiêu dùng cũng như các nhà sản xuất sẽ có thêm cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ cho tiêu dùng cũng như các sản phẩm đầu vào và dịch vụ phục vụ cho sản xuất. Điều đó được minh chứng qua thực tiễn của Việt Nam trong suốt hai thập kỷ qua, mặc dù Việt Nam mới chỉ là Thành viên chính thức của WTO từ tháng 01/2007.
– Thương mại quốc tế là một động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Trong số các nhân tố góp phần vào tăng trưởng kinh tế như cầu tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu thì đối với Việt Nam cũng như Trung Quốc, xuất khẩu có vai trò cực kỳ quan trọng. Trong suốt những thập niên gần đây, tốc độ tăng xuất khẩu của Việt Nam luôn lớn hơn tốc độ tăng GDP. Đóng góp của thương mại đối với tăng trưởng kinh tế có được thông qua việc thương mại đã góp phần mở rộng qui mô sản xuất, ứng dụng công nghệ tiên tiến, tận dụng các nguồn lực của nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài v.v…
– Được đối xử bình đẳng hơn trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Trong hợp tác thương mại đa phương, các hiệp định của WTO đã đưa ra nguyên tắc bình đẳng trong thương mại quốc tế và các qui tắc giải quyết tranh chấp. WTO còn lập ra các Cơ quan Giải quyết tranh chấp với những quy định ưu đãi dành cho các Thành viên đang phát triển. Nguyên tắc có đi có lại hay hai bên cùng có lợi và cả nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cũng được lấy làm nền tảng của hợp tác thương mại song phương hay khu vực. Giải quyết tranh chấp trong loại hình hợp tác này tuy được dựa trên các điều luật quốc tế nhưng những điều luật đó đều phù hợp và phần lớn đều dựa trên các nguyên tắc và Hiệp định của WTO. Do vậy hợp tác thương mại toàn cầu sẽ cho phép Việt Nam hưởng sự đối xử bình đẳng trong giải quyết tranh chấp.
– Hợp tác thương mại toàn cầu giúp nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Trong hợp tác thương mại đa phương, với vị trí là Thành viên của WTO, Việt Nam có thể có tiếng nói của mình trong các diễn đàn cũng như các cuộc đàm phán thương mại đa phương để hoạch định chính sách thương mại quốc tế. Trong hợp tác thương mại khu vực, Việt Nam có điều kiện để khẳng định vai trò và bảo vệ các lợi ích của mình trong khu vực. Hợp tác song phương góp phần tạo ra mối quan hệ bình đẳng giữa Việt Nam với các nước khác trên thế giới.
– Thúc đẩy cải cách kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh. Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển nói: “Gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới tạo ra nhiều cơ hội. Cơ hội lớn nhất là bằng cải cách hệ thống luật pháp và thể chế kinh tế, chúng ta đã tạo ra môi trường kinh doanh, đầu tư tốt hơn… khuyến khích mọi người dân vào hoạt động sản xuất kinh doanh, giải phóng năng lực của chính họ”6. Khi tham gia hợp tác thương mại khu vực và song phương, đặc biệt khi là Thành viên của WTO, Việt Nam phải cải cách thể chế kinh tế cho phù hợp với các qui tắc chung cũng như các cam kết trong khối hoặc song phương. Nhờ đó môi trường kinh doanh trở nên minh bạch, có thể dự đoán và hấp dẫn hơn đối với các doanh nghiệp trong nước cũng như nước ngoài. Với trách nhiệm thực thi các qui tắc của WTO và các cam kết với tổ chức này, Việt Nam sẽ không thể trì hoãn mà phải đẩy mạnh các cải cách một cách toàn diện. Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh sẽ phải đẩy nhanh hơn, các thành phần kinh tế phải được đối xử một cách bình đẳng v.v… Những cải cách kinh tế sẽ kéo theo các cải cách và sự hoạt động có hiệu quả hơn của các cơ quan chính quyền các cấp. Thực hiện nguyên tắc minh bạch và không phân biệt đối xử của WTO sẽ góp phần chống tham nhũng một cách có hiệu quả.
– Tham gia hợp tác thương mại đa phương cũng như khu vực Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ kết quả đàm phán chung. Trong khuôn khổ WTO, nếu Vòng đàm phán Doha kết thúc thành công, Việt Nam sẽ thu được lợi ích từ các cam kết mở cửa thị trường, đặc biệt là từ việc giảm thuế và cắt giảm trợ cấp đối với hàng nông sản của các nước công nghiệp.
1.2. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI (WTO)
Những qui tắc chung nhất của WTO được qui định trong Hiệp định về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định Marrakesh).
1.2.1. Mục tiêu, nhiệm vụ, chức năng và cơ cấu tổ chức của WTO
1.2.1.1. Mục tiêu của WTO
Mục tiêu của WTO được nêu ra ở lời nói đầu của Hiệp định thành
lập Tổ chức Thương mại Thế giới. Các mục tiêu đó được kế thừa từ các mục tiêu do Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT
1947) nêu ra và được phát triển và bổ sung trong những điều kiện mới của kinh tế và thương mại thế giới. Các mục tiêu đó gồm:
– Phát triển sản xuất và thương mại;
– Nâng cao mức sống của người dân các nước thành viên; Tạo công ăn việc làm; Góp phần tăng thu nhập thực tế cũng như nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư;
– Mở rộng sản xuất, thương mại hàng hóa và dịch vụ;
– Sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của thế giới gắn liền với việc bảo đảm sự phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi trường;
– Xây dựng một cơ chế thương mại đa phương chặt chẽ, ổnđịnh và khả thi.
– Thực thi các mục tiêu đó theo cách thức phù hợp với nhu cầu cũng như mối quan tâm của các Thành viên có trình độ phát triển khác nhau, đặc biệt là nỗ lực tích cực để đảm bảo rằng các Thành viên đang và kém phát triển duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế.
1.2.1.2. Nhiệm vụ của WTO
Nhiệm vụ của WTO được nêu ra trong Điều II của Hiệp định Marrakesh. WTO có nhiệm vụ đưa ra khung thể chế chung nhằm điều chỉnh các quan hệ thương mại giữa các nước Thành viên thông qua các hiệp định và các công cụ pháp lý có liên quan. Hầu hết các hiệp định của WTO đều là kết quả của Vòng đàm phán Uruguay (1986-1994), được ký kết tại Hội nghị Bộ trưởng Marrakesh vào tháng 04/1994. Có khoảng 60 Hiệp định và quyết định với tổng cộng 550 trang được ký kết tại Hội nghị này.
Một cách tổng quan, WTO có hai nhóm Hiệp định chính là các hiệp định đa phương và các hiệp định nhiều bên (xem hộp 1.1). Hiệp định đa phương là những Hiệp định mà mọi Thành viên của WTO phải có nghĩa vụ thi hành và không có ngoại lệ. Hiệp định nhiều bên là những Hiệp định chỉ ràng buộc pháp lý đối với những Thành viên tham gia ký kết, và hoàn toàn không ràng buộc bất kỳ nghĩa vụ và quyền hạn nào đối với những Thành viên không tham gia ký kết.
Hộp 1.1. Hệ thống các hiệp định của WTO
Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (Hiệp định Marrakesh) Các hiệp định Thương mại đa phương
Phụ lục 1A. Các hiệp định đa phương về thương mại hàng hóa
1. Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)
2. Hiệp định Nông nghiệp
3. Hiệp định về việc Áp dụng các biện pháp vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật
4. Hiệp định về Hàng dệt và May mặc
5. Hiệp định về các Hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
6. Hiệp định về các Biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
7. Hiệp định về việc Thực hiện Điều VI của Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (Hiệp định Chống bán phá giá)
8. Hiệp định về việc Thực hiện Điều VII của Hiệp định Chung về Thuế
quan và Thương mại 1994 (Hiệp định Xác định Trị giá Hải quan)
9. Hiệp định về Giám định trước khi gửi hàng
10. Hiệp định về Qui tắc Xuất xứ
11. Hiệp định về các Thủ tục cấp phép nhập khẩu
12. Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng
13. Hiệp định về các Biện pháp tự vệ
Phụ lục 1B. Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và các phụ
lục
Phụ lục 1C. Hiệp định về các Khía cạnh liên quan đến Thương mại của
Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Phụ lục 2: Thỏa thuận về các qui tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp
Phụ lục 3: Cơ chế rà soát chính sách thương mại
Các hiệp định Thương mại nhiều bên
1. Hiệp định về Mua bán máy bay dân dụng
2. Hiệp định về Mua sắm chính phủ
3. Hiệp định quốc tế về sản phẩm từ sữa (đã chấm dứt hiệu lực năm 1997)
4. Hiệp định quốc tế về thịt bò (đã chấm dứt hiệu lực năm 1997)
1.2.1.3. Chức năng của WTO
Hiệp định Marrakesh đã nêu lên các chức năng sau của WTO:
– Quản lý, điều hành việc thực thi Hiệp định Marrakesh cũng như các hiệp định Thương mại đa phương, đồng thời tạo khuôn khổ pháp lý cho việc quản lý và thực thi các hiệp định Thương mại nhiều bên.
– Tạo ra diễn đàn đàm phán giữa các Thành viên về các mối quan hệ thương mại đa phương, và tạo ra những khuôn khổ chung cho việc thực hiện các kết quả đàm phán đã đạt được.
– Điều hành Thỏa thuận về các quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp.
– Điều hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
– Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác đặc biệt là với Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) nhằm đạt tới sự phối hợp tốt hơn trong việc hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu.
1.2.1.4. Cơ cấu tổ chức của WTO
Về cơ cấu tổ chức, WTO có ba cơ quan chủ yếu là Hội nghị Bộ trưởng, Đại Hội đồng và Ban thư ký, trong đó Hội nghị Bộ trưởng và Đại Hội đồng là các cơ quan có quyền ra quyết định (xem Hình 1.1).
– Hội nghị Bộ trưởng. Hội nghị Bộ trưởng là cơ quan quyền lực cao nhất của WTO, gồm đại diện của tất cả các Thành viên, họp ít nhất hai năm một lần. Đây là cơ quan có quyền đưa ra quyết định cao nhất của WTO. Hội nghị Bộ trưởng thực thi các chức năng của WTO, đưa ra những quyết định mang tính chiến lược và quan trọng nhất như những quyết định liên quan đến mọi vấn đề trong các hiệp định Thương mại đa phương, kết nạp Thành viên mới v.v… Hội nghị Bộ trưởng còn đứng ra thành lập các ủy ban chuyên trách của mình như Ủy ban về thương mại và phát triển, Ủy ban về các hạn chế đối với cán cân thanh toán, Ủy ban về ngân sách, tài chính và quản trị v.v…
Đến nay, tính đến ngày 01/08/2007, đã có tổng cộng sáu Hội nghị Bộ trưởng. Đó là Hội nghị Bộ trưởng Singapore (họp tại Singapore từ ngày 09-13/12/1996); Hội nghị Geneva (họp tại Geneva, Thụy Sĩ, từ ngày 18-20/5/1998); Hội nghị Seattle (họp tại Seattle, Hoa Kỳ, từ ngày 30/11 đến ngày 03/12/1999); Hội nghị Doha (họp tại Doha, Qatar, từ ngày 09-13/11/2001); Hội nghị Cancun (họp tại Cancun, Mêhicô, từ ngày 10-14/09/2003) và Hội nghị Hồng Kông (họp tại Hồng Kông, Trung Quốc, từ ngày 13-18/12/2005. Tại Hội nghị Doha năm 2001, WTO đã khởi xướng Vòng đàm phán mới – Vòng Doha.
– Đại Hội đồng. Đại Hội đồng là cơ quan chấp hành của WTO, gồm đại diện của tất cả các Thành viên và được nhóm họp ở thời điểm cần thiết. Đại Hội đồng thực hiện các chức năng của WTO giữa hai kỳ Hội nghị Bộ trưởng và thực hiện các chức năng khác được Hiệp định WTO giao phó. Đại Hội đồng còn có quyền hạn đưa ra và thông qua các qui tắc liên quan đến hoạt động của các ủy ban chuyên trách của WTO. Đại Hội đồng cũng có thể kiêm chức năng là Cơ quan Giải quyết tranh chấp và Cơ quan rà soát chính sách thương mại. Đại Hội đồng cũng có quyền quyết định kết nạp Thành viên mới như trường hợp cuộc họp của Đại Hội đồng quyết định kết nạp Việt Nam trở thành Thành viên của WTO vào ngày 07/11/2006.
– Các Ủy ban, Hội đồng chuyên trách. Cấp tiếp theo là các Hội đồng thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại dịch vụ và Hội đồng về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Những Hội đồng này có trách nhiệm báo cáo lên Đại hội đồng. Ngoài ra, còn có rất nhiều Ủy ban chuyên trách và các nhóm công tác khác nhau trực thuộc các Hội đồng như Ủy ban chống bán phá giá, Ủy ban trợ cấp và các biện pháp đối kháng, Ủy ban về môi trường, Nhóm công tác về mở cửa thị trường v.v… Sơ đồ tổ chức của WTO được trình bày chi tiết trong trang web của WTO. Sơ đồ dưới đây được lấy từ nguồn của tác giả Norio Komuro.
– Ban thư ký. Mặc dù không phải là một cơ quan ra quyết định và đơn thuần là một cơ quan hành chính nhưng Ban thư ký có vai trò rất quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của Ban thư ký là cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho các hội đồng, các ủy ban; cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật cho các Thành viên đang phát triển; theo dõi và phân tích tình hình phát triển của thương mại thế giới; và là phát ngôn viên của WTO trước báo chí và công chúng và tổ chức các Hội nghị Bộ trưởng. Đứng đầu Ban thư ký là Tổng giám đốc do Đại Hội đồng chỉ định. Ban thư ký có khoảng 600 nhân viên.
Hình I.1. Sơ đồ tổ chức của WTO
Nguồn: Norio Komuro 2005. The WTO How are you?. Worldbank seminar Russian Academy of State Services. Moscow March/April 2005.
1.2.2. Quá trình ra quyết định của WTO
Quá trình ra quyết định của WTO được dựa trên nguyên tắc đồng thuận. Khi có một vấn đề được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại Hội đồng để thông qua, nếu không một Thành viên nào có mặt có ý kiến phản đối thì có nghĩa là quyết định được thông qua trên cơ sở đồng thuận, còn gọi là nguyên tắc đồng thuận thuận.
Trong trường hợp không đạt được sự đồng thuận, để quyết định một vấn đề cụ thể WTO sẽ tiến hành bỏ phiếu. Tại các cuộc họp của Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng, mỗi Thành viên sẽ được bỏ một phiếu. Trường hợp của Liên minh châu Âu (EU), hiện nay gồm 27 nước thành viên, số phiếu biểu quyết bằng số nước Thành viên EU cộng với bản thân EU được coi là một Thành viên WTO thành 28 phiếu. Quyết định của Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại Hội đồng lúc đó sẽ dựa trên đa số phiếu, trừ trường hợp quyết định của Đại Hội đồng với tư cách là Cơ quan Giải quyết tranh chấp sẽ tuân theo các điều khoản của Thỏa thuận về các qui tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp.
WTO còn có những qui định cụ thể cho việc ra quyết định ở những trường hợp đặc biệt khác.
1.2.3. Các nguyên tắc của hệ thống thương mại của WTO
Như đã trình bày ở phần trên, nền tảng cho sự tồn tại và vận hành của WTO là hệ thống các hiệp định. Các hiệp định này có dung lượng rất lớn và bao trùm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ thương mại hàng hóa tới thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, các qui tắc giải quyết tranh chấp và rà soát chính sách thương mại. Tuy nhiên, có những nguyên tắc chung xuyên suốt toàn bộ các hiệp định đó và những nguyên tắc này là các trụ cột của hệ thống thương mại đa phương. Các nguyên tắc đó gồm:
1.2.3.1. Không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử được thực hiện thông qua hai chế độ. Đó là chế độ đối xử tối huệ quốc và chế độ đối xử quốc gia.
– Đối xử tối huệ quốc (MFN). Đối xử tối huệ quốc có nghĩa là dành sự ưu đãi như nhau cho mọi đối tác. Nói cách khác, nếu một Thành viên dành ưu đãi cho một Thành viên khác, như áp dụng
mức thuế thấp cho một sản phẩm nhập khẩu nào đó, hay dành cho một sự miễn trừ nào đó, thì ngay lập tức và không điều kiện các Thành viên khác cũng sẽ được hưởng sự ưu đãi đó. Đây là nguyên tắc bao trùm mọi Hiệp định của WTO, đặc biệt nó được ghi thành điều khoản trong GATT, trong Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ (GATS) và trong Hiệp định về các Khía cạnh Liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu trí tuệ (TRIPs). Cụ thể:
“… bất kỳ một sự ưu đãi, ưu tiên, đặc quyền hay miễn trừ mà một bên ký kết dành cho bất kỳ sản phẩm nào có xuất xứ từ hoặc được giao đến bất kỳ nước nào khác thì ngay lập tức và không điều kiện phải được dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hoặc được giao đến lãnh thổ của tất cả các bên ký kết khác”. (Điều I khoản 1 GATT 1947).
“Đối với bất kỳ biện pháp nào thuộc phạm vi điều chỉnh của Hiệp định này, mỗi Thành viên phải ngay lập tức và không điều kiện dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ của bất kỳ Thành viên nào khác sự đãi ngộ không kém thuận lợi hơn sự đãi ngộ mà Thành viên đó dành cho dịch vụ và người cung cấp dịch vụ tương tự của bất kỳ nước nào khác”. (Điều II khoản 1 GATS).
“Đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bất kỳ một sự ưu tiên, chiếu cố, đặc quyền hoặc miễn trừ nào được một Thành viên dành cho công dân của bất kỳ nước nào khác cũng phải được ngay lập tức và không điều kiện dành cho công dân của tất cả các Thành viên khác”. (Điều 4 khoản 1 TRIPs).
– Đối xử quốc gia (NT). Có nghĩa là phải có sự đối xử bình đẳng giữa trong nước và nước ngoài. Chẳng hạn giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu, giữa dịch vụ do các nhà cung ứng nội địa cung cấp và dịch vụ do các công ty nước ngoài cung cấp, giữa công dân hay công ty trong nước và công dân hay công ty nước ngoài, giữa bản quyền tác phẩm của các tác giả trong nước và của các tác giả nước ngoài. Tuy nhiên Chính phủ một nước chỉ có nghĩa vụ thực thi đối xử quốc gia khi một sản phẩm, dịch vụ hay một thực thể sở hữu trí tuệ của nước ngoài thực sự gianhập thị trường nước đó. Cũng giống như đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia là một nguyên tắc bao trùm các hiệp định của GATT và WTO. Nguyên tắc này cũng được ghi thành điều khoản ở Điều III của GATT, Điều XVII của GATS, và Điều 3 của TRIPs.
Khác với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc điều chỉnh các biện pháp hạn chế mở cửa thị trường, nguyên tắc đối xử quốc gia hướng tới tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Bởi vậy, đối xử quốc gia liên quan trực tiếp tới các biện pháp, luật lệ và chính sách của Chính phủ như chính sách thuế, chính sách liên quan đến tiếp cận và sử dụng các nguồn lực trong nước, qui chế đấu thầu v.v… Đây là lĩnh vực thường bị các doanh nghiệp chỉ trích và phàn nàn nhiều nhất.
Thực tế trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam đã có những nỗ lực vượt bậc trong sửa đổi chính sách và pháp luật của mình để đảm bảo thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO. Đặc biệt, nguyên tắc cơ bản này của WTO được quán triệt trong Luật Đầu tư Việt Nam năm 2005. Điều 4 khoản 2 của Luật khẳng định: “Nhà nước đối xử bình đẳng trước pháp luật đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài”. Ở Điều 10, Chính phủ Việt Nam cam kết áp dụng giá, phí, lệ phí thống nhất đối với hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước kiểm soát. Điều 14 về “Quyền tiếp cận, sử dụng nguồn lực đầu tư”, các nhà đầu tư được “bình đẳng trong việc tiếp cận, sử dụng các nguồn vốn tín dụng, quĩ hỗ trợ; sử dụng đất đai và tài nguyên theo qui định của pháp luật”. Điều 19 xác nhận quyền của nhà đầu tư “tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công theo nguyên tắc không phân biệt đối xử”.
WTO có đưa ra một số ngoại lệ đối với nguyên tắc không phân biệt đối xử này. Các trường hợp ngoại lệ điển hình về phân biệt đối xử được GATT và các hiệp định của WTO cho phép gồm:
– Điều XIV của GATT về “Các ngoại lệ đối với qui tắc không phân biệt đối xử” cho phép phân biệt đối xử trong một số trường hợp liên quan đến áp dụng các hạn chế định lượng nhập khẩu.
– Dựa vào “điều khoản được phép” (Enabling Clause) các nước công nghiệp phát triển đã dành cho hầu hết các nước đang phát triển Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), một loại ưu đãi thông qua giảm thuế đơn phương của nước công nghiệp cho hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển, không yêu cầu có đi có lại.
– Trong thương mại dịch vụ, một Thành viên có thể áp dụng một số biện pháp phân biệt đối xử được qui định trong Điều II khoản 2 của Hiệp định GATS và phù hợp với các điều kiện của Phụ lục về các miễn trừ của Điều II.
– Theo Hiệp định về các Biện pháp Tự vệ, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng, Hiệp định Chống bán phá giá, trong trường hợp diễn ra thương mại không lành mạnh từ phía nước xuất khẩu, một nước nhập khẩu có thể gia tăng các rào cản thương mại (như tăng thuế và áp dụng hạn ngạch) đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước xuất khẩu đó.
– Ngoài ra còn một số ngoại lệ khác được qui định trong các hiệp định khác nhau như cho phép áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với nhập khẩu nông sản, phân biệt đối xử trong cấp hạn ngạch dệt may trong Hiệp định Dệt may, ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển v.v…
– Qui tắc của WTO về mua sắm của Chính phủ được xem là một ngoại lệ điển hình của nguyên tắc đối xử quốc gia.
1.2.3.2.Thương mại tự do hơn
Thương mại ngày càng tự do có thể nói là nguyên tắc mà GATT và WTO theo đuổi suốt quá trình hoạt động của của mình. Tự do hoá thương mại không chỉ được quán triệt trong GATT và trong các hiệp định của WTO mà còn cả trong thực tiễn hoạt động của chúng. GATT và tiếp theo các hiệp định của WTO đã đưa ra các điều khoản và qui tắc nhằm ràng buộc và thúc đẩy các nước Thành viên mở cửa thị trường. GATT là Hiệp định đầu tiên về cắt giảm thuế quan trong thương mại đa phương. Với tám vòng đàm phán của GATT, thuế quan hàng công nghiệp đã giảm một cách căn bản. Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, thuế suất hàng công nghiệp ở các nước công nghiệp giảm xuống chỉ còn khoảng 6,3%. Việc dỡ bỏ các rào cản phi thuế quan cũng từng bước được đưa vào đàm phán và thực thi. Trước hết đó là hạn ngạch và một số hạn chế định lượng hạn chế nhập khẩu khác. Tiếp theo, nhất là vào thập niên 80 của thế kỷ 20, các rào cản phi thuế quan khác đã được dỡ bỏ hoặc đưa vào điều chỉnh với các hiệp định về thương mại hàng hoá được ký kết ở Vòng đàm phán Uruguay.
Vòng đàm phán Uruguay đã mở rộng tự do hoá thương mại sang các lĩnh vực mới là dịch vụ và sở hữu trí tuệ. GATS đã qui định nghĩa vụ pháp lý của các Thành viên đối với các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ. Bên cạnh đó TRIPs với các qui tắc về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã đưa ra một khuôn khổ pháp lý an toàn hơn cho tự do hoá thương mại.
Tuy nhiên, các hiệp định của WTO không bắt buộc các Thành viên phải nhanh chóng tự do hoá thương mại. Chúng không chỉ cho phép các Thành viên tiến hành cải cách và tự do hoá thương mại một cách từ từ với các bước quá độ mà còn tạo ra một cơ chế an toàn cho cải cách. Các cơ chế an toàn đó là rất nhiều điều khoản ngoại lệ cho các Thành viên đang và kém phát triển, là các ngoại lệ liên quan đến an ninh quốc gia, vệ sinh, an toàn và môi trường. Ngoài ra, đó còn là các qui tắc về các biện pháp tự vệ, các biện pháp chống bán phá giá, các biện pháp đánh thuế đối kháng v.v…
1.2.3.3. Tính minh bạch: Báo cáo và giám sát
Để hướng tới tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định và có thể dự đoán trong hệ thống thương mại đa phương, WTO yêu cầu các Thành viên phải thực thi các biện pháp để đảm bảo tính minh bạch trong hệ thống kinh tế cũng như thương mại của mình. Môi trường kinh doanh như vậy giúp doanh ngHiệp định hướng một cách hiệu quả chiến lược kinh doanh trong tương lai, khích lệ họ đầu tư và nhờ đó tạo ra nhiều việc làm và góp phần nâng cao mức sống của dân cư. Nguyên tắc tăng cường tính minh bạch được thể chế hóa ở Điều X của GATT và Điều III của GATS. Để thực hiện nguyên tắc này, WTO yêu cầu các Thành viên phải thực thi các biện pháp:
– Đưa ra các cam kết ràng buộc khi mở cửa thị trường. Điều đó có nghĩa là phải đưa ra mức trần của cam kết trong đàm phán mở cửa thị trường. Ví dụ: trong thương mại hàng hoá, một nước trong đàm phán mở cửa thị trường thịt bò có thể đặt cam kết ràng buộc đối với thuế nhập khẩu thịt bò là 15%. Khi cam kết mở cửa thị trường có hiệu lực, nước đó sẽ không được tăng thuế vượt mức đó. Trong thương mại dịch vụ, khi có cam kết mở cửa thị trường thì mức mở cửa thị trường không được thấp hơn mức hiện hành và các Thành viên không được duy trì hoặc ban hành những biện pháp hạn chế được nêu trong Điều XVI của GATS.
– Hạn chế áp dụng hạn ngạch, các biện pháp hạn chế định lượng và những biện pháp khác có thể làm giảm tính minh bạch của môi trường kinh doanh. Thực tế của Việt Nam cũng cho thấy áp dụng hạn ngạch với cơ chế xin – cho không minh bạch dễ dẫn đến tình trạng tiêu cực và cạnh tranh không công bằng.
– Chính phủ các Thành viên phải công bố công khai và phải đảm bảo công chúng cũng như các doanh nghiệp trong và ngoài nước có thể tiếp cận dễ dàng các chính sách, các qui định, luật lệ và thông tin liên quan đến ngoại thương.
– Thành lập các cơ quan có thẩm quyền để rà soát các quyết định hành chính có ảnh hưởng đến thương mại; xem xét các yêu cầu và kiến nghị của các Thành viên khác.
– Các Thành viên phải đảm bảo sự phù hợp giữa luật lệ và chính sách của mình với các hiệp định của WTO. Đây là một nghĩa vụ pháp lý của các Thành viên. “Mỗi Thành viên phải bảo đảm sự phủ hợp của các luật, các chính sách và thủ tục hành chính của mình với các nghĩa vụ được quy định tại các hiệp định ở phần phụ lục” (Điều XVI khoản 4 Hiệp định Marrakesh về thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới).
Để đảm bảo tính minh bạch, WTO có cơ chế giám sát được đưa vào Hiệp định về Cơ chế rà soát chính sách thương mại. Theo cơ chế này, WTO yêu cầu các Thành viên phải thông báo cho WTO và các Thành viên khác những biện pháp, các chính sách hoặc luật lệ mà Chính phủ áp dụng để điều chỉnh thương mại (theo nghĩa rộng). Ngoài ra, WTO còn tiến hành rà soát theo định kỳ chính sách thương mại của các Thành viên. Bốn thực thể thương mại lớn nhất của thế giới gồm EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và Canada bị rà soát hai năm một lần. 16 thực thể thương mại lớn tiếp theo sẽ bị rà soát bốn năm một lần. Các Thành viên còn lại bị rà soát sáu năm một lần, trừ trường hợp có thể áp dụng một thời kỳ dài hơn đối với các Thành viên kém phát triển. WTO lập ra Cơ quan Rà soát Chính sách Thương mại (TPRB) để thực thi công việc này.
Nguyên tắc minh bạch là rất cần thiết cho việc thực thi các cam kết, cho việc trao đổi thông tin trong WTO. Ngoài ra nó còn giúp nâng cao quyền lực của WTO đối với các Thành viên. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cam kết đảm bảo tính minh bạch của những biện pháp, chính sách và luật lệ của mình liên quan đến thương
mại.
1.2.3.4. Hỗ trợ các nước đang phát triển và kém phát triển
WTO đã sớm đề ra nguyên tắc đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D) nhằm hỗ trợ các Thành viên kém phát triển, đang phát triển và cả các nền kinh tế đang chuyển đổi. Trong hầu hết các hiệp định của WTO đều đưa vào các điều khoản này với các qui định cụ thể về ưu đãi cho các Thành viên kém và đang phát triển. Nội dung các điều khoản đặc biệt này gồm:
– Có một thời kỳ quá độ dài hơn khi thực thi các hiệp định và cam kết của WTO;
– Có các biện pháp để gia tăng cơ hội thương mại cho các
Thành viên đang phát triển;
– Mức độ cam kết thấp hơn;
– Được hỗ trợ về mặt kỹ thuật hoặc được hưởng một số ưu đãi khác như hỗ trợ trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, trong giải quyết tranh chấp, trong thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật;
– Yêu cầu các Thành viên phải bảo vệ lợi ích của các Thành viên đang phát triển;
– Ngoài ra còn có các điều khoản yêu cầu các nước công nghiệp dành những ưu đãi khác cho các nước kém phát triển như đơn phương miễn thuế hoặc xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu từ các nước kém phát triển.
Hội nghị Bộ trưởng lần thứ tư họp tại Doha đã uỷ quyền cho Uỷ ban Thương mại và phát triển giám sát việc thực thi các điều khoản về đối xử đặc biệt và khác biệt này.
1.2.4. Đàm phán gia nhập
Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia và lãnh thổ hải quan có đầy đủ chủ quyền kinh tế trong hoạch định và thực thi các chính sách thương mại của mình đều có thể gia nhập WTO. Tuy nhiên, muốn trở thành Thành viên của WTO, quốc gia hay lãnh thổ hải quan đó phải được sự đồng thuận của tất cả các Thành viên. Muốn đạt được sự đồng thuận này quốc gia xin gia nhập phải tiến hành đàm phán. Quá trình đàm phán xin gia nhập gồm các nội dung chủ yếu sau:
– Nước xin gia nhập nộp đơn xin gia nhập.
– Đại Hội đồng thành lập Ban Công tác. Về nguyên tắc tất cả các Thành viên của WTO có yêu cầu đàm phán với đối tác gia nhập đều có thể là Thành viên của Ban Công tác.
– Minh bạch hóa chính sách. Ở giai đoạn này nước xin gia nhập phải gửi văn kiện thuyết minh toàn bộ các chính sách kinh tế và thương mại của mình có liên quan đến các hiệp định của WTO. Văn kiện sẽ được Ban Công tác của WTO xem xét. Ngoài ra nước xin gia nhập còn phải trả lời tất cả các câu hỏi do các Thành viên của Ban Công tác nêu ra.
– Đàm phán gia nhập, bao gồm đàm phán song phương và đàm phán đa phương. Đàm phán song phương là đàm phán giữa nước xin gia nhập và các Thành viên khác. Sở dĩ có đàm phán song phương là do mỗi Thành viên với những đặc thù về kinh tế và thương mại của mình có những yêu cầu đàm phán khác nhau. Nội dung đàm phán có thể bao trùm toàn bộ các hiệp định của WTO từ thuế quan và các rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa đến mở cửa thị trường dịch vụ, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Do nguyên tắc không phân biệt đối xử, cam kết của nước xin gia nhập với bất kỳ một Thành viên nào cũng sẽ được áp dụng cho tất cả các Thành viên khác của WTO, kể cả những nước không tham gia đàm phán. Đàm phán đa phương là đàm phán với WTO nói chung thông qua đại diện là Ban Công tác. Trọng tâm của nó là đàm phán về các điều khoản gia nhập liên quan tới các quy tắc và nghĩa vụ được quy định trong các hiệp định của WTO trên 3 lĩnh vực chính là: (i) thương mại hàng hóa; (ii) quyền sở hữu trí tuệ và (iii) các vấn đề mang tính hệ thống liên quan tới thương mại dịch vụ. Nội dung đàm phán đa phương tập trung vào việc xem xét các luật và thể chế chính sách của nước xin gia nhập. Nếu luật lệ và thể chế chính sách của nước xin gia nhập chưa phù hợp với các hiệp định của WTO, WTO yêu cầu nước xin gia nhập phải tiến hành những sửa đổi phù hợp.
– Ban Công tác soạn thảo văn kiện gia nhập. Sau khi hoàn tất việc đàm phán song phương và đa phương, Ban Công tác sẽ hoàn tất bộ văn kiện trọn gói cuối cùng về các điều khoản gia nhập. Bộ văn kiện này gồm: Báo cáo của Ban Công tác, Nghị định thư gia nhập, các Biểu cam kết của nước xin gia nhập và Quyết định gia nhập do Đại Hội đồng phê chuẩn.
– Xem xét ra quyết định và các thủ tục pháp lý khác. Bộ văn kiện trọn gói cuối cùng sẽ được trình cho Đại Hội đồng hoặc Hội nghị Bộ trưởng xem xét. Nếu hai phần ba số Thành viên của WTO biểu quyết tán thành, thì WTO sẽ phê chuẩn Quyết định gia nhập. Đồng thời nước xin gia nhập sẽ ký Nghị định thư gia nhập. Đối với một số nước, văn kiện xin gia nhập còn phải được Quốc hội hoặc Nghị viện của nước đó thông qua. Nước gia nhập sẽ chính thức trở thành Thành viên của WTO sau 30 ngày kể từ khi WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn thành thủ tục phê chuẩn Nghị định thư gia nhập và các phụ lục.
1.2.5. Tổng quan về quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam đã trải qua các giai đoạn sau:
– Nộp đơn. Ngày 4 tháng 1 năm 1995 WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam.
– Đại Hội đồng thành lập Ban Công tác. Ngày 31/01/1995, Ban Công tác được thành lập. Đại sứ Seung Ho (Hàn Quốc) làm chủ tịch Ban Công tác trong giai đoạn 1998-2004, và Đại sứ Eirik Glene (Na Uy) làm chủ tịch Ban Công tác giai đoạn 2005-2006.
– Minh bạch hóa chính sách. Tiếp theo, Việt Nam bước vào giai đoạn minh bạch hóa chính sách. Việt Nam gửi văn kiện cho WTO thuyết minh về chính sách kinh tế và thương mại của mình và trả lời các câu hỏi do các Thành viên Ban Công tác nêu ra. Tổng cộng Việt Nam phải trả lời khoảng 3516 câu hỏi.
– Đàm phán về thực chất. Về đàm phán song phương, lúc đầu khoảng hơn 40 Thành viên yêu cầu đàm phán với Việt Nam. Khi kết thúc đàm phán song phương, Việt Nam tổng cộng phải hoàn tất đàm phán với 28 đối tác. Mỹ là nước cuối cùng kết thúc đàm phán với Việt Nam. Văn kiện kết thúc đàm phán với Mỹ được ký kết vào ngày 31/05/2006.
Về đàm phán đa phương, tổng cộng Việt Nam phải trải qua 14 phiên đàm phán chính thức với Ban Công tác. Phiên đầu tiên diễn ra vào các ngày 30-31/07/1998. Phiên cuối cùng diễn ra vào ngày 26/10/2006. Trong các phiên đàm phán này, về thương mại hàng hóa, Việt Nam đã đưa ra bốn bản chào về thuế quan. Về thương mại dịch vụ, Việt Nam đã đưa ra bản chào về các cam kết cụ thể trong dịch vụ lần đầu vào ngày 07/01/2002. Bản chào này sau đó còn được sửa đổi ba lần nữa. Trong quá trình đàm phán, để đáp ứng các yêu cầu của đàm phán đa phương, Việt Nam đã có những nỗ lực vượt bậc nhằm hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách của mình phù hợp với các chuẩn mực của WTO. Tổng cộng Việt Nam đã sửa đổi và xây dựng mới 25 luật và pháp lệnh, trong đó có các đạo luật mới được ban hành, như Luật Cạnh tranh năm 2004, Pháp lệnh Chống bán phá giá năm 2004, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005…
– Văn kiện gia nhập. Báo cáo của Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO lần đầu tiên được dự thảo vào ngày 22/11/2004, sau đó được tiếp tục hoàn chỉnh vào ngày 19/10/2006. Tuy nhiên phải đợi đến phiên đàm phán đa phương lần thứ 14 vào ngày 26/10/2006, bộ văn kiện về việc Việt Nam gia nhập WTO mới được hoàn tất để trình lên Đại Hội đồng.
– Xem xét, biểu quyết kết nạp. Ngày 07/11/2006, Đại Hội đồng họp tại Geneva xem xét và biểu quyết kết nạp Việt Nam trở thành Thành viên của WTO. Đại Hội đồng đã bỏ phiếu chính thức kết nạp Việt Nam là Thành viên của WTO. Sau lễ kết nạp, Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã ký Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập WTO. Vào ngày 28/11/2006, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới của Việt Nam. Ngày 12/12/2006, WTO nhận được thông báo của Việt Nam về việc chính thức phê chuẩn bộ văn kiện gia nhập. Như vậy, kể từ ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành Thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới.
Hộp 1.2. Tóm tắt các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam7
Bộ văn kiện gia nhập của Việt Nam bao gồm các tài liệu: Nghị định thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam; Quyết định của Đại Hội đồng về việc gia nhập WTO của Việt Nam; Báo cáo của Ban Công tác về việc gia nhập của Việt Nam; Biểu cam kết về thương mại hàng hoá (bao gồm cam kết về thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp); và Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ. Các cam kết của Việt Nam có thể qui thành ba nhóm lớn là các cam kết đa phương, các cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá và các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ.
– Các cam kết đa phương. Các cam kết đa phương gia nhập WTO của Việt Nam được tổng hợp trong Báo cáo của Ban Công tác. Đây là cam kết chung với WTO về việc thực hiện các nghĩa vụ, qui tắc và việc tuân thủ các hiệp định của WTO. Việt Nam cam kết thực hiện toàn bộ các hiệp định đa phương của WTO ngay thời điểm gia nhập. Trên thực tế, phần lớn các cam kết của Việt Nam đã được luật hoá trong các đạo luật ban hành trong những năm gần đây. Các nhóm vấn đề chính Việt Nam cam kết gồm: Chính sách kinh tế; Khuôn khổ ban hành và thực thi chính sách; Các chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá; Những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Các chính sách ảnh hưởng đến thương mại dịch vụ; Minh bạch hoá; Các hiệp định thương mại; Kết luận; và hai phụ lục. Dưới đây là một số điểm chính trong các cam kết đa phương.
Về chính sách kinh tế, Việt Nam có các cam kết liên quan đến: chính sách tài chính tiền tệ; chính sách ngoại hối và thanh toán; chính sách đầu tư; các doanh nghiệp nhà nước; tư nhân hoá và cổ phần hoá; chính sách giá cả; chính sách cạnh tranh. Liên quan đến chính sách tài chính, tiền tệ, ngoại hối và thanh toán, Việt Nam sẽ tuân thủ các nghĩa vụ có liên quan đến ngoại hối theo đúng qui định của WTO cũng như các tuyên bố và quyết định của WTO liên quan đến IMF. Việt Nam đồng thời chấp nhận tuân thủ Điều VIII của Điều lệ IMF. Các doanh nghiệp nhà nước sẽ hoạt động bình đẳng như những doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, hoàn toàn theo tiêu chí của thị trường và chịu sự điều chỉnh chung của pháp luật. Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Mua sắm của doanh nghiệp nhà nước cũng không được coi là mua sắm của Chính phủ. Chính phủ Việt Nam cũng có trách nhiệm báo cáo thường niên cho WTO tiến độ tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Việt Nam cam kết thực thi quản lý giá phù hợp với các qui định của WTO và bảo đảm sự minh bạch trong kiểm soát giá cả thông qua việc thông báo rộng rãi cho công chúng và doanh nghiệp các mặt hàng chịu sự quản lý giá cũng như các văn bản pháp luật có liên quan.
Về ban hành và thực thi các luật và chính sách, cam kết về lĩnh vực này thể hiện ở ba nguyên tắc sau. Thứ nhất, tuân thủ qui định của Hiệp định Marrakesh, trong quá trình phê chuẩn các văn kiện pháp luật Việt Nam ưu tiên áp dụng các điều khoản trong các cam kết quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam sẽ thực thi các cách thức phù hợp để thực hiện các cam kết. Thứ hai, đảm bảo sự thống nhất và nhất quán việc thực hiện các qui tắc của WTO trên toàn bộ lãnh thổ hải quan, không chỉ ở cấp Trung ương mà cả các cấp địa phương. Thứ ba, bảo đảm sự khách quan và công bằng khi tiến hành tố tụng, xét xử các tranh chấp liên quan đến các lĩnh vực WTO điều chỉnh.
Về chính sách ảnh hưởng đến thương mại hàng hoá, cam kết quan trọng nhất là cam kết về quyền kinh doanh (quyền xuất khẩu và nhập khẩu). Việt Nam cam kết tuân thủ các qui định có liên quan của WTO. Kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập, các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài có quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá như các doanh nghiệp và cá nhân Việt Nam. Ngoại lệ về quyền này được áp dụng chung cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nước cũng như nước ngoài, bao gồm một số mặt hàng thuộc diện thương mại nhà nước như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí. Ngoài ra, còn một số mặt hàng khác các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ được phép kinh doanh sau một thời kỳ quá độ. Các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có hiện diện thương mại tại Việt Nam được phép đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Tuy nhiên, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Việt Nam vẫn giữ quyền đưa ra các quy định về quản lý dịch vụ phân phối.
Về những vấn đề liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, Việt Nam cam kết thực thi đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo Hiệp định TRIPs. Những cam kết chi tiết đã được đưa vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.
Về minh bạch hoá, Việt Nam cam kết đăng tải công khai các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để nhân dân có thể đóng góp ý kiến. Các văn bản pháp luật cũng sẽ được công bố trên các phương tiện khác nhau nhằm tạo điều kiện cho nhân dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận với các văn bản đó.
Về nghĩa vụ thông báo chính sách, Việt Nam cam kết thực thi nghĩa vụ thông báo thường xuyên các chính sách, luật lệ của mình cho WTO để phục vụ cho công tác rà soát chính sách thương mại của WTO.
– Các cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá. Liên quan đến lĩnh vực mở cửa thị trường hàng hoá, Việt Nam cam kết:
(i) Ràng buộc mức trần cho tất cả các dòng thuế trong biểu thuế nhập khẩu, gồm 10.600 dòng thuế. Mức thuế bình quân giảm từ 17,4% mức hiện hành xuống còn 13,4%, với lộ trình cắt giảm kéo dài trong vòng năm đến bảy năm. Mức thuế bình quân hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn 20,9%, thực hiện trong khoảng năm năm. Giảm thuế hàng công nghiệp thực hiện trong vòng năm đến bảy năm từ mức thuế bình quân hiện hành
16,8% xuống còn 12,6%.8
(ii) Chỉ dùng thuế nhập khẩu làm công cụ để bảo hộ. Việt Nam phải cắt giảm thuế, nhất là đối với các dòng thuế có thuế suất cao trên 20%. Trong việc áp dụng các loại thuế và phí, Việt Nam cam kết thực thi các qui tắc của WTO, tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử, cũng như cam kết sửa đổi những điểm chưa phù hợp. Về các biện pháp hạn chế định lượng, hiện nay, Việt Nam chỉ còn áp dụng đối với một số ít mặt hàng, và cam kết cho phép nhập khẩu xe máy phân khối lớn không muộn hơn ngày 31/05/2007. Việt Nam bảo lưu quyền áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với đường, trứng gia cầm, lá thuốc lá và muối. Về các rào cản và qui định khác, Việt Nam sẽ tuân thủ các qui tắc của WTO về xác định trị giá hải quan, qui tắc xuất xứ, về các rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật, qui tắc về quá cảnh, chống bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp tự vệ, bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản. Việt Nam còn cam kết tham gia một số Hiệp định tự do hoá theo ngành như sản phẩm công nghệ thông tin (ITA), dệt may và thiết bị y tế.
(iii) Tại các cửa khẩu, ngoài thuế nhập khẩu không sử dụng phí, lệ phí và các khoản thu khác nhằm mục đích thu ngân sách.
Các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ. So với Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA), Việt Nam đã có những cam kết ở mức cao hơn về mở cửa thị trường dịch vụ. Việt Nam đã cam kết mở cửa khoảng 110 phân ngành trên tổng số 155 phân ngành của 11 ngành trên tổng số 12 ngành dịch vụ theo phân loại của WTO. Biểu cam kết dịch vụ gồm ba phần là cam kết chung, cam kết cụ thể và danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc. Bốn phương thức cung cấp dịch vụ theo qui định của WTO được trình bày trong Biểu cam kết dịch vụ lần lượt gồm: (1) cung cấp qua biên giới; (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ; (3) hiện diện thương mại; (4) hiện diện thể nhân.
Cam kết chung bao gồm các nội dung cam kết được áp dụng cho tất cả các ngành dịch vụ. Các công ty nước ngoài có nhiều quyền hạn hơn so với BTA như được phép phát hành cổ phiếu ra công chúng, thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài v.v… Công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh trừ một số ngoại lệ được qui định cho các ngành cụ thể. Công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam. Các tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam theo tỷ lệ được qui định cụ thể ở từng ngành. Các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ sẽ được hưởng qui tắc đối xử quốc gia. Việc cấp giấy phép cung ứng dịch vụ cũng sẽ được thực thi theo tiêu chí khách quan, minh bạch.
Cam kết cụ thể gồm các cam kết áp dụng cho từng ngành dịch vụ nhất định. Những điểm chính về cam kết cụ thể trong các ngành dịch vụ là như sau:
Dịch vụ kinh doanh: Nhìn chung tuỳ theo lĩnh vực cụ thể phía nước ngoài chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn sau 2 đến 5 năm sau khi Việt Nam gia nhập. Ngoài ra Việt Nam bên cạnh nới rộng quyền kinh doanh trong một số lĩnh vực vẫn tiến hành bảo lưu một số ràng buộc đối với các doanh nghiệp nước ngoài.
Dịch vụ viễn thông: Về cung cấp dịch vụ viễn thông có gắn với hạ tầng mạng, bên nước ngoài chỉ được đầu tư dưới hình thức liên doanh với phía Việt Nam với vốn góp tối đa của phía nước ngoài là 49%. Về các dịch vụ viễn thông khác các nhà đầu tư nước ngoài cũng chỉ được cung ứng thông qua liên doanh tuy mức ràng buộc về vốn góp được nới lỏng hơn, có thể là 51%, hay 65%, 70% sau 3 năm Việt Nam gia nhập tuỳ theo loại hình dịch vụ.
Dịch vụ phân phối: Phía nước ngoài phải thành lập liên doanh với đối tác Việt Nam với tỷ lệ vốn góp tối đa 49%. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 hạn chế vốn góp 49% sẽ được bãi bỏ nhưng chưa đạt mức 100%. Từ ngày 1 tháng1 năm 2009 các công ty nước ngoài được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên Việt Nam không mở cửa một số thị trường phân phối cho nước ngoài như xăng dầu, dược phẩm, sách, báo v.v… và một số thị trường khác chỉ mở cửa sau 3 năm như sắt thép, phân bón. Ngoài ra, Việt Nam hạn chế chặt chẽ việc mở điểm bán lẻ của các công ty nước ngoài.
Dịch vụ giáo dục: Chỉ cam kết các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế học, kế toán, luật quốc tế và đào tạo ngôn ngữ. Đối với giáo dục phổ thông chưa cam kết cho phép nước ngoài mở cơ sở đào tạo tại Việt Nam. Các dịch vụ giáo dục khác tuy có cam kết mở cửa nhưng vẫn đi kèm với nhiều ràng buộc như phải tuân thủ các qui định của Nhà nước đối với giáo viên nước ngoài.
Dich vụ tài chính: Về dịch vụ bảo hiểm, các công ty nước ngoài được thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài ngay từ thời điểm Việt Nam gia nhập. Các công ty nước ngoài được cung cấp bảo hiểm bắt buộc từ ngày 1 tháng 1 năm 2008 và thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau năm năm kể từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam cũng cam kết mở cửa nhiều loại hình dịch vụ bảo hiểm khác cho các công ty nước ngoài. Về dịch vụ ngân hàng, ngân hàng nước ngoài được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài không muộn hơn ngày 1 tháng 4 năm 2007. Ngân hàng nước ngoài còn được phép huy động tiền gửi bằng tiền đồng Việt Nam theo một lộ trình. Bên cạnh đó còn nhiều ràng buộc khác như hạn chế mua cổ phần của các ngân hàng thương mại, không cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh v.v… Về dịch vụ chứng khoán, các công ty nước ngoài được kinh doanh dưới hình thức liên doanh với vốn góp tối đa 49% ngay sau thời điểm gia nhập, và thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài sau 5 năm. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được quyền cung ứng một số dịch vụ chứng khoán qua biên giới.
Dịch vụ vận tải: Về vận tải biển và hỗ trợ vận tải biển, Việt Nam không hạn chế các công ty nước ngoài vận chuyển hàng hoá qua biên giới nhưng không cam kết đối với vận tải hành khách. Trong vòng 5 năm đầu kể từ khi gia nhập, các nhà cung ứng nước ngoài được kinh doanh dưới hình thức liên doanh với vốn góp tối đa 51% để cung ứng một số dịch vụ vận tải biển quốc tế. Sau 5 năm có thể thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Một số dịch vụ hỗ trợ vận tải như xếp dỡ công-te-nơ, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi công-te-nơ cũng được mở cửa cho các công ty nước ngoài. Về dịch vụ vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và đường không, Việt Nam không cam kết về vận chuyển hàng hoá và hành khách qua biên giới. Tuy nhiên các doanh nghiệp nước ngoài có thể tham gia cung ứng thông qua liên doanh.
Các loại hình dịch vụ khác: Các loại hình dịch vụ khác như dịch vụ nghe nhìn, dịch vụ xây dựng, dịch vụ môi trường, dịch vụ y tế, dịch vụ văn hoá giải trí v.v… Việt Nam đều cam kết mở cửa nhưng với mức độ khác nhau. Tuỳ theo lĩnh vực và thời gian sau gia nhập, các nhà cung ứng nước ngoài có thể kinh doanh dưới hình thức liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài.
Danh mục các biện pháp miễn trừ đối xử tối huệ quốc bao gồm các biện pháp được áp dụng đối với một số dịch vụ nhưng trái với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc. Việc áp dụng những biện pháp như vậy vẫn được phép theo qui tắc của GATS nếu những biện pháp này được đưa vào danh mục miễn trừ đối xử tối huệ quốc và được các Thành viên khác chấp nhận.
1.2.6. Bài học kinh nghiệm từ quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam
Mặc dù đàm phán gia nhập WTO đã kết thúc và Việt Nam đã trở thành Thành viên của WTO nhưng việc rút ra những bài học trong quá trình đàm phán vẫn rất cần thiết và bổ ích cho những cuộc đàm phán thương mại trong tương lai của đất nước. Sơ bộ từ thực tiễn đàm phán kéo dài trong suốt hơn 10 năm qua có thể rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
– Nắm vững thể chế, qui tắc của WTO cũng như những điều luật quốc tế có liên quan để có thể chủ động vận dụng trong quá trình đàm phán. Cũng nhờ đó, Việt Nam có thể đưa ra những đòi hỏi ưu đãi cũng như những nhân nhượng phù hợp với qui tắc của WTO và thông lệ quốc tế.
– Kiên trì và cương quyết giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc để bảo vệ tối đa lợi ích của đất nước, bên cạnh đó cần vận dụng linh hoạt các chiến thuật đàm phán. Có thể nói Việt Nam đã quán triệt phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Đàm phán gia nhập kéo dài hơn 10 năm đã thể hiện sự kiên trì bền bỉ của Việt Nam. Trong quá trình đàm phán đó nhiều khi ta đã phải kiên trì thuyết phục đối tác và chỉ có những nhượng bộ hợp lý hoặc có thể chấp nhận được. So với nhiều nước gia nhập trước ta gần đây, mức độ cam kết của Việt Nam trong nhiều lĩnh vực thấp hơn. Trong những cuộc đàm phán song phương với các đối tác thương mại cũng như trong các cuộc đàm phán đa phương, đoàn đàm phán của Việt Nam có lúc mềm mỏng với đối tác nhưng cũng có những lúc tỏ ra rất cương quyết trước những đòi hỏi vô lý của các đối tác. Ở vòng đàm phán cuối cùng với Mỹ tại Washington cũng như ở phiên đàm phán đa phương lần thứ 13 tại Geneva, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển cũng như đoàn đàm phán, đã có những tuyên bố và ứng xử rất cương quyết nhưng linh hoạt, kịp thời.
– Huy động tổng lực các ngành các cấp tham gia vào quá trình đàm phán. Nhờ đó, những nội dung mà Việt Nam đặt ra trên bàn đàm phán đã phản ánh được yêu cầu cải cách, hội nhập của nền kinh tế và đi đến những cam kết phù hợp với trình độ chung của nền kinh tế.
– Thông qua quá trình đàm phán thúc đẩy quá trình cải cách và đổi mới của đất nước cả ở Trung ương và địa phương. Để thực hiện cam kết gia nhập chúng ta đã tích cực và khẩn trương cải cách hệ thống pháp luật, hoàn thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy sự cạnh tranh của nền kinh tế.
– Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như các hình thức khác, tuyên truyền phổ biến rộng rãi cho cán bộ và nhân dân về quá trình đàm phán cũng như những lợi ích và thách thức của đất nước khi gia nhập WTO. Nhờ đó đã tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân đối với chủ trương gia nhập WTO. Tuy nhiên ở khía cạnh này, cũng cần rút kinh nghiệm tránh có những tuyên truyền thái quá có thể dẫn đến những hiệu ứng không mong muốn.
1.2.7. WTO và những tổ chức quốc tế khác
Điều V của Hiệp định Marrakesh nêu rõ, Đại Hội đồng có trách nhiệm đưa ra các chương trình phù hợp nhằm thúc đẩy sự hợp tác có hiệu quả với các tổ chức liên chính phủ có chức năng nhiệm vụ liên quan với chức năng nhiệm vụ của WTO. Sự hợp tác đó là nhu cầu tất yếu trong sự phát triển của toàn cầu hóa cũng như của hệ thống thương mại đa phương, đặc biệt trên khía cạnh hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế toàn cầu. Trong số những tổ chức liên chính phủ, WTO đặc biệt nhấn mạnh sự hợp tác với Quĩ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB). Sự hợp tác với các tổ chức quốc tế này được thực thi thông qua việc ký kết các hiệp định hợp tác. Những Hiệp định đó là cơ sở cho sự hợp tác Đa phương, cho việc tư vấn thường xuyên giữa WTO và IMF, WB. Trong bộ văn kiện kết thúc Vòng đàm phán Uruguay vào tháng 04/1994 đã bao gồm các văn kiện: Tuyên bố về sự đóng góp của Tổ chức Thương mại Thế giới vào việc đạt được sự nhất quán cao hơn trong hoạch định chính sách kinh tế toàn cầu, Tuyên bố về mối quan hệ giữa Tổ chức Thương mại Thế giới và Quĩ Tiền tệ Quốc tế. Năm 1996, WTO, IMF và WB đã ký kết Hiệp định giữa WTO và IMF, WB.
Ngoài IMF và WB, WTO còn có sự phối hợp và hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế khác như Hội nghị về Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCTAD), Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO).
Điều V của Hiệp định Marrakesh cũng qui định, Đại Hội đồng có trách nhiệm đưa ra các chương trình phù hợp nhằm thúc đẩy sự tư vấn và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ quan tâm tới các vấn đề liên quan tới WTO.
Trên thực tế, không chỉ đối với WTO, các tổ chức phi chính phủ, đại diện cho tiếng nói của công chúng, đã quan tâm đến GATT từ những ngày đầu mới ra đời của nó vào năm 1947. Sự ra đời của WTO làm cho mối quan tâm của công chúng với hệ thống thương mại đa phươngngày càng gia tăng. Sự quan tâm của WTO đối với vấn đề này không chỉ thể hiện ở Điều V của Hiệp định Marrakesh như nói ở trên mà còn ở nhiều văn kiện khác, đặc biệt là ở các văn bản hướng dẫn. Chẳng hạn văn bản WT/L/162 về Hướng dẫn về thiết lập các mối quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, do Đại Hội đồng thông qua vào ngày 18/07/1996. Văn bản pháp lý này đã đưa ra định hướng cho việc đối thoại giữa WTO và công chúng. Các tổ chức phi chính phủ còn có thể bày tỏ tiếng nói của mình thông qua các kênh như tham dự các Hội nghị Bộ trưởng, tham gia diễn đàn thảo luận các chuyên đề, và có thể liên hệ thường xuyên với Ban Thư ký của WTO. Tháng 07/1998, Tổng Giám đốc của WTO Renato Ruggiero còn đưa ra kế hoạch của WTO đẩy mạnh sự hợp tác với các tổ chức phi chính phủ bằng việc tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ có tiếng nói của mình đối với WTO.
Trên thực tế các tổ chức phi chính phủ đã tham gia dự ngay từ Hội nghị Bộ trưởng đầu tiên của WTO, Hội nghị Singapore vào năm 1996. Họ là đại diện cho tiếng nói của công chúng về các vấn đề như môi trường, phát triển, lợi ích của người tiêu dùng, kinh doanh, các liên minh thương mại và lợi ích của nông dân. Các Hội nghị Bộ trưởng tiếp theo tiếp tục dành được sự quan tâm ngày càng gia tăng của các tổ chức phi chính phủ.
Nhiều diễn đàn chuyên đề cũng đã được Ban Thư ký của WTO tổ chức nhằm đáp ứng yêu cầu của các tổ chức phi chính phủ. Đặc biệt đó là diễn đàn các vấn đề về thương mại và môi trường, thương mại và phát triển, và tạo thuận lợi cho thương mại. Những vấn đề này sau đó đã được đưa vào Chương trình nghị sự của Vòng đàm phán Doha.
Thực tế cho thấy các vấn đề của hệ thống thương mại đa phương đã và đang dành được sự quan tâm rộng rãi của xã hội dân sự, và WTO chứng tỏ đã biết lắng nghe tiếng nói của công chúng trong quá trình giải quyết các vấn đề của mình.
1.3. WTO LÀ MỘT DIỄN ĐÀN ĐÀM PHÁN
1.3.1. Tổng quan về quá trình đàm phán của WTO
WTO ra đời vào ngày 01/01/1995, nhưng tiền thân của nó, Hiệp định Chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947) đã được ký kết vào năm 1947. Trong suốt 47 năm tồn tại của mình, GATT giữ vai trò điều chỉnh hệ thống thương mại đa phương với các điều khoản thể chế của mình. Ngoài ra, GATT còn tạo ra một diễn đàn cho đàm phán thương mại đa phương, với tổng cộng có tám vòng đàm phán về thương mại như đã trình bày ở phần trên.
WTO tiếp tục những nỗ lực của GATT về đàm phán thương mại đa phương. Tháng 01/1997, WTO đạt được thỏa thuận về dịch vụ viễn thông với việc mở rộng hơn nữa các biện pháp tự do hóa đã đạt được ở Vòng đàm phán Uruguay. Cũng trong năm 1997, 40 nước đã đạt được thỏa thuận về thương mại tự do đối với các sản phẩm công nghệ thông tin và 70 nước khác đạt được thỏa thuận về thương mại dịch vụ tài chính, chiếm tới 95% thương mại về ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán và thông tin tài chính.
Tại Hội nghị Bộ trưởng Doha, Vòng đàm phán Doha, Vòng đàm phán đầu tiên của WTO, được khởi xướng. Vòng đàm phán này tiếp tục giải quyết những vấn đề còn tồn tại của hệ thống thương mại đa phương chưa được giải quyết ở các vòng đàm phán trước đó. Chương trình nghị sự của Vòng đàm phán Doha gồm các vấn đề như thuế quan đối với sản phẩm phi nông nghiệp, vấn đề nông nghiệp, quyền sở hữu trí tuệ, vấn đề ưu đãi đối với các nước đang phát triển, vấn đề về mối quan hệ giữa thương mại và môi trường, các qui tắc của WTO như chống bán phá giá và trợ cấp, đầu tư, chính sách cạnh tranh, tạo thuận lợi cho thương mại, tính minh bạch trong mua sắm của Chính phủ.
1.3.2. Tự do hóa thương mại đa phương
Trên thực tế, từ khi ra đời đến nay, hệ thống thương mại đa phương đã phát triển theo hướng tự do hóa. GATT trước đây và WTO ngày nay luôn phấn đấu cho mục tiêu thương mại tự do hơn bằng những nỗ lực đàm phán để giảm thiểu các rào cản thương mại. Với tám vòng đàm phán của GATT, thuế quan nhập khẩu đối với hàng công nghiệp đã được cắt giảm một cách cơ bản. Vào những năm 1970, và nhất là vào những năm 1980 của thế kỷ 20, GATT bắt đầu mở rộng diện đàm phán sang cắt giảm các rào cản phi thuế quan đối với thương mại hàng hóa, dỡ bỏ các rào cản đối với thương mại dịch vụ và vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Vòng đàm phán Doha của WTO được khởi xướng từ năm 2001 đang nỗ lực đi theo xu hướng thương mại tự do hơn, đặc biệt đối với thương mại hàng nông sản. Các hiệp định của GATT và WTO được xây dựng trên nền tảng kim chỉ nam của tự do hóa thương mại.
Quá trình tự do hóa thương mại đa phương diễn ra trong các thập kỷ qua với các đặc trưng chủ yếu sau:
– Về thuế quan, thuế quan đã được cắt giảm mạnh sau các vòng đàm phán thương mại đa phương. Tuy nhiên sự cắt giảm còn có sự khác biệt theo chủng loại hàng hóa và xuất xứ của hàng hóa. Hiện nay mức thuế quan nhập khẩu bình quân ở các nước công nghiệp thấp hơn ở các nước đang phát triển, và thuế quan nhập khẩu hàng nông sản cao hơn so với hàng công nghiệp. Vấn đề còn tồn tại hiện nay là thuế cao và thuế đỉnh đối với một số hàng công nghiệp và hàng nông sản.
– Về các rào cản phi thuế quan, các rào cản phi thuế quan đã được dỡ bỏ đáng kể trong hơn 20 năm gần đây nhờ các hiệp định liên quan của GATT và WTO. Tuy nhiên bên cạnh đó các hình thức bảo hộ phần nhiều được phép với các qui tắc của WTO đã gia tăng đáng kể. Các hành vi chống bán phá giá, áp dụng các biện pháp tự vệ, đánh thuế đối kháng xuất hiện ngày càng nhiều mà chủ yếu để chống lại hàng hóa nhập khẩu từ các nước đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. Trợ cấp xuất khẩu đối với hàng công nghiệp đã được xóa bỏ về cơ bản. Bên cạnh đó trợ cấp đối với xuất khẩu nông sản và hỗ trợ sản xuất nông sản của các nước công nghiệp còn ở mức rất cao, ước tính khoảng một tỷ USD một ngày. Điều đó đã gây ra sự bất bình đẳng trong thương mại đa phương.
– Về mở cửa thị trường dịch vụ, Vòng đàm phán Uruguay đã đưa vào vấn đề dịch vụ và đi đến ký kết Hiệp định chung về thương mại dịch vụ. Nhờ đó tự do hóa thương mại đa phương đã được mở rộng sang cả lĩnh vực dịch vụ. Các cam kết đa phương về mở cửa thị trường dịch vụ đã có được những bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ cũng đặt vấn đề tiếp tục đàm phán về tự do hóa thương mại dịch vụ, nhất là ở các lĩnh vực cụ thể như viễn thông, tài chính v.v…
– Về quyền sở hữu trí tuệ, cũng tại Vòng đàm phán Uruguay vấn đề sở hữu trí tuệ đã được đưa vào đàm phán và Hiệp định về các Khía cạnh Liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ được ký kết. Với Hiệp định này, nội dung của thương mại đa phương đã được mở rộng sang cả lĩnh vực sở hữu trí tuệ.
1.3.3. Các nhóm lợi ích và sự can thiệp vào quá trình hoạch định chính sách
Trong WTO tiếng nói của đại diện các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản, Canada, Liên minh châu Âu (EU) có vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, việc hoạch định chính sách thương mại và đàm phán của WTO không chỉ bị chi phối bởi các Thành viên mà còn bởi các nhóm lợi ích khác. Liên kết với nhau ở trong các nhóm nước này, các nước nhỏ trong WTO sẽ có sức mạnh lớn hơn trong đàm phán.
Nhóm nước lớn nhất và có quan hệ chặt chẽ nhất trong WTO là EU với 27 nước Thành viên hiện nay. EU trước hết là một liên minh hải quan có chính sách thuế quan chung với các nước ngoài khối. Trong các diễn đàn của WTO, Ủy ban châu Âu đều có phát biểu đại diện cho EU. Có thể nói EU là một Thành viên lớn của WTO bao gồm 27 Thành viên nhỏ của WTO có tiếng nói tập thể có sức mạnh trong WTO.
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có 10 nước Thành viên và hiện nay chín nước (trừ Lào) đã là Thành viên của WTO. Mặc dù liên kết với nhau trong Khu vực thương mại tự do AFTA và có nhiều lợi ích thương mại chung nhưng ASEAN ít khi có được tiếng nói chung tại các diễn đàn của WTO. Các nước trong các liên kết kinh tế và thương mại khác như Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR), Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng ít khi phối hợp với nhau để đưa ra tiếng nói chung. Một số nhóm nước khác như Nhóm các nước kém phát triển, Nhóm nước châu Phi, Ca-ri-bê và Thái Bình Dương (ACP) và Hệ thống kinh tế châu Mỹ la tinh đôi khi cũng có sự phối hợp để bảo vệ lợi ích của mình.
Nhóm Cairns được thành lập vào năm 1986 trước Vòng đàm phán Uruguay thuộc loại hình liên minh khác trong WTO. Nhóm Cairns tập hợp các nước quan tâm đến việc tự do hóa thương mại hàng nông sản, yêu cầu các nước giàu phải giảm thuế nhập khẩu và hỗ trợ trong nước cũng như trợ cấp xuất khẩu đối với hàng nông sản. Nhóm này có vai trò và có tiếng nói rất quan trọng trong các cuộc đàm phán về nông nghiệp. “Tuyên bố tầm nhìn Nhóm Cairns” đã chỉ rõ mục tiêu của Nhóm trong thương mại hàng nông sản: cắt giảm mạnh tất cả các loại thuế, loại bỏ leo thang thuế quan, loại bỏ các loại trợ cấp trong nước bóp méo thương mại, loại bỏ trợ cấp xuất khẩu.
Nhóm G-21 được thành lập vào ngày 20/08/2003. Nhóm hiện nay có 21 thành viên. Trọng tâm quan tâm của Nhóm là vấn đề nông sản trong Vòng đàm phán Doha. Nhóm phấn đấu cho mục tiêu đạt tới một kết quả đàm phán nông nghiệp như kỳ vọng đặt ra và phản ánh được lợi ích của các nước đang phát triển. Nhóm đã thể hiện được vai trò và tiếng nói của mình trong Hội nghị Cancun và trong Bộ thoả thuận khung tháng 07/2004.
1.3.4. Có đi có lại và cơ chế đàm phán
Để đạt tới những kết quả nhất định trong trong đàm phán thương mại quốc tế các bên cần có sự nhượng bộ theo nguyên tắc có đi có lại, cũng có nghĩa là các bên cùng có lợi. Tuy nhiên cả GATT và WTO đều không làm rõ khái niệm này. Mặc dù vậy, tinh thần các hiệp định của GATT và WTO đều chứng tỏ nguyên tắc các bên cùng có lợi. Mỗi Thành viên tham gia đàm phán đều là các nước hoặc nền kinh tế có chủ quyền trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế và thương mại. Kết quả của các cuộc đàm phán đạt được là do các Thành viên thấy được mình có được lợi ích từ Hiệp định và chấp nhận thực hiện nó. Nếu không thu được lợi ích các Thành viên sẽ không đạt tới sự đồng thuận và đi tới ký kết hiệp định. Nguyên tắc có đi có lại phản ánh sự đánh đổi giữa lợi ích của tự do hóa thương mại và chi phí cho sự tự do hóa ấy. Để thâm nhập được vào thị trường các nước khác một nước phải cho phép đối tác thương mại xâm nhập thị trường nước mình. Trong trường hợp đàm phán gia nhập tuy chỉ xảy ra sự đơn phương nhượng bộ của nước xin gia nhập nhưng thực chất cũng thể hiện nguyên tắc có đi có lại và hai bên cùng có lợi. Lợi ích của nước xin gia nhập là lợi ích trọn gói khi trở thành Thành viên của WTO. Để đổi lại nước xin gia nhập phải có những nhượng bộ về mở cửa thị trường cho các Thành viên khác. Các Thành viên khác đàm phán nhằm đảm bảo mình thu được lợi ích khi một nước trở thành Thành viên mới của WTO.
Nguyên tắc có đi có lại được lấy làm cơ sở cho quá trình đàm phán. Sự nhượng bộ về thuế quan hay mở cửa thị trường dịch vụ của một nước này phải được đổi lại bằng sự nhượng bộ về thuế quan hay những nhượng bộ khác của đối tác thương mại. Trong hệ thống thương mại đa phương thực tế các cuộc đàm phán đã được vận hành theo nguyên tắc này. Các đàm phán về cắt giảm thuế quan và những đàm phán về mở cửa thị trường dịch vụ trong suốt các vòng đàm phán của GATT trước đây và WTO ngày nay đã chứng tỏ điều này. Trong Vòng đàm phán Uruguay cũng đã diễn ra sự nhượng bộ trong việc đưa vào ký kết Hiệp định Nông nghiệp theo yêu cầu của các nước đang phát triển, và Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ theo yêu cầu của các nước công nghiệp phát triển. Vòng đàm phán Doha bế tắc cũng là do chưa đạt được sự nhượng bộ của các nhóm lợi ích tham gia đàm phán. Trong những trường hợp đặc thù, GATT cũng như WTO cho phép các Thành viên có thể đình chỉ sự nhượng bộ tương đương. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của WTO không nhất thiết đàm phán luôn phải dựa trên nguyên tắc có đi có lại. Với các ngoại lệ trong nguyên tắc không phân biệt đối xử, với nguyên tắc ưu đãi cho các nước đang phát triển và kém phát triển, đàm phán có thể đi đến kết quả với sự nhượng bộ đơnphương, ở một chừng mực nào đó, của các nước công nghiệp đối với các nước nghèo.
1.3.5. Nội dung của Vòng đàm phán Doha
Với mục tiêu tiếp tục duy trì cải cách và tự do hóa thương mại, tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững của nền kinh tế thế giới và thực hiện những mục tiêu của WTO được nêu ra trong Hiệp định Marrakesh, Hội nghị Bộ trưởng Doha đã khởi xướng Vòng đàm phán Doha. Tuyên bố Doha ở Hội nghị Bộ trưởng này đã vạch ra định hướng cho Vòng đàm phán. Tuyên bố Doha gồm hai nội dung chính. Nội dung thứ nhất là việc thực hiện các cam kết hiện có, chủ yếu liên quan tới các nước đang phát triển. Nội dung thứ hai là những vấn đề được đưa vào đàm phán ở Vòng đàm phán này. Các vấn đề đàm phán chủ yếu gồm:
– Nông nghiệp. Đây là vấn đề nổi cộm và gay cấn nhất trong Vòng đàm phán Doha. Đàm phán về nông nghiệp hướng tới mục tiêu xóa bỏ những rào cản và những biện pháp dẫn tới tình trạng không công bằng trong thương mại hàng nông sản. Các nội dung được đưa ra đàm phán gồm: Mở cửa thị trường hàng nông sản, bao gồm việc giảm đáng kể thuế quan và các rào cản thương mại khác; Giảm thiểu, tiến tới xoá bỏ tất cả các hình thức trợ cấp; Cắt giảm cơ bản những hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại. Ngoài ra đàm phán về nông nghiệp còn có những nội dung khác như bảo vệ môi trường, an ninh lương thực, phát triển khu vực nông thôn v.v…
– Đàm phán về dịch vụ. Đàm phán dịch vụ nhằm tiếp tục thực hiện điều khoản được ghi trong GATS về tự do hóa thương mại dịch vụ.
– Mở cửa thị trường đối với các sản phẩm phi nông nghiệp (NAMA). Vòng đàm phán Doha hướng tới giải quyết một số tồn tại liên quan đến vấn đề mở cửa thị trường hàng phi nông nghiệp. Mục tiêu cần đạt tới là cắt giảm, hoặc loại bỏ, bao gồm cả việc cắt giảm hoặc loại bỏ thuế đỉnh, thuế cao, leo thang thuế quan cũng như các rào cản phi thuế quan, đặc biệt đối với các sản phẩm xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích cho các nước đang và kém phát triển. Đàm phán phải quan tâm đến nhu cầu và lợi ích của các nước đang và kém phát triển. Để thực hiện mục tiêu nêu trên đàm phán còn có nhiệm vụ phải đưa ra một công thức cắt giảm phù hợp.
– Những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs). Các nội dung cụ thể được quan tâm trong vấn đề đàm phán này là: TRIPs và sức khỏe cộng đồng; Chỉ dẫn địa lý và hệ thống đăng ký; Rà soát các điều khoản của TRIPs. Việc rà soát này nhằm mục đích phát hiện và chỉnh sửa những điều khoản không phù hợp hoặc bổ sung những điều khoản mới do các Thành viên nêu ra.
– Các vấn đề Singapore, gồm: (i) Thương mại và đầu tư với mục tiêu đưa ra các nguyên tắc và qui tắc điều chỉnh nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư. (ii) Mối quan hệ giữa chính sách thương mại và chính sách cạnh tranh. (iii) Tính minh bạch trong mua sắm của Chính phủ. (iv) Tạo thuận lợi cho thương mại. Từ ngày 1 tháng 4 năm 2004 ba vấn đề (i), (ii) và (iii) đã được đưa ra khỏi Chương trình nghị sự của Vòng đàm phán.
– Các qui tắc của WTO về chống bán phá giá và trợ cấp, về các hiệp định Thương mại khu vực. Đàm phán về chống bán phá giá và trợ cấp nhằm hoàn thiện những nguyên tắc về chống bán phá giá và trợ cấp, đặc biệt quan tâm tới nhu cầu và lợi ích của các nước đang và kém phát triển. Về các hiệp định Thương mại khu vực, đàm phán hướng tới làm rõ và hoàn thiện các điều khoản hiện có của WTO đối với các hiệp định Thương mại khu vực.
– Thương mại và môi trường.
– Các nước kém phát triển. Vòng đàm phán Doha hướng tới mục tiêu đạt được sự cam kết của Chính phủ các Thành viên dành ưu đãi, mở cửa thị trường tự do không thuế và không hạn ngạch và tạo những điều kiện thuận lợi khác cho xuất khẩu của các nước kém phát triển. Ngoài ra các nước kém phát triển còn được cam kết được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật và tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình đàm phán gia nhập WTO.
– Đối xử đặc biệt và khác biệt (S&D). WTO trong các hiệp định của mình có các điều khoản cho phép các nước đang phát triển hưởng những ưu đãi. Trong Vòng đàm phán Doha các điều khoản này sẽ được rà soát lại nhằm diễn giải chúng một cách chính xác hơn và tiếp tục khẳng định các ưu đãi này.
Ngoài các vấn đề trên Vòng đàm phán Doha còn đưa vào Chương trình nghị sự của mình các vấn đề đàm phán khác như Thỏa thuận về giải quyết tranh chấp, thương mại và tài chính, thương mại điện tử, các nền kinh tế nhỏ, thương mại, nợ nần và tài chính, thương mại và chuyển giao công nghệ, hợp tác kỹ thuật và phát triển năng lực. Như vậy có thể nói về thực chất Vòng đàm phán Doha tập trung giải quyết các vấn đề về mở cửa thị trường và các qui tắc của WTO.
Hội nghị Bộ trưởng Cancun năm 2003 có nhiệm vụ rà soát các vấn đề cần đàm phán và thiết lập các phương thức đàm phán trong hầu hết các lĩnh vực. Tuy có được một số kết quả khiêm tốn nhưng Hội nghị này không đạt được mục tiêu như ban đầu đưa ra. Hội nghị đã không đạt được sự đồng thuận đáng kể nào và rơi vào bế tắc do các Thành viên bất đồng ý kiến nghiêm trọng về vấn đề nông nghiệp và cả các vấn đề Singapore. Trong tiến trình đàm phán nhóm các nước đang phát triển như Liên minh Châu Phi, Nhóm ACP (châu Phi, Ca-ri-bê, và Thái Bình Dương), Nhóm G-21 đã có tiếng nói chung hay đồng thuận để bảo vệ quyền lợi của mình. Chẳng hạn họ yêu cầu phải bảo lưu sự ưu đãi, sử dụng một cơ chế tự vệ đặc biệt cho các nước đang phát triển.
Sau Hội nghị Cancun các Thành viên chủ chốt của WTO đã nỗ lực tháo gỡ bế tắc của Vòng đàm phán Doha. Nhờ thế Vòng đàm phán Doha đã chính thức được khởi động lại vào đầu tháng 04/2004. Các cuộc đàm phán cam go sau đó đã dẫn tới việc đạt được một “Bộ thoả thuận khung tháng 07/2004” (The July 2004 package), vào ngày 31/07/2004. Bộ thoả thuận khung bao gồm các tiêu chí khá cụ thể làm cơ sở cho việc thiết lập các phương thức đàm phán trong các lĩnh vực còn nhiều quan điểm bất đồng. Với Bộ thoả thuận khung này, lần đầu tiên đàm phán đã có được những tiến bộ đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, mở cửa thị trường cho các sản phẩm phi nông nghiệp, vấn đề phát triển và thuận lợi hoá thương mại. Các Thành viên đã đồng ý loại bỏ mọi loại trợ cấp xuất khẩu cho nông sản với một thời hạn cụ thể. Những hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại sẽ được cắt giảm đáng kể.9
Thời hạn đặt ra ban đầu cho việc kết thúc Vòng đàm phán vào ngày 01/01/2005 đã không đạt được. Hội nghị Bộ trưởng Hồng Kông họp vào các ngày 13-18/12/ 2005 được đánh giá là gặt hái được một số kết quả đáng kể. Với sự nhân nhượng của EU, năm 2013 được thống nhất là thời hạn chót cho việc loại bỏ các loại trợ cấp xuất khẩu nông sản. Hội nghị cũng đi đến một thoả thuận về bông với việc đẩy nhanh loại bỏ trợ cấp xuất khẩu và cắt giảm trợ cấp trong nước bóp méo thương mại. Có sự nhất trí cao trong việc dành cho 32 nước Thành viên kém phát triển ưu đãi tiếp cận thị trường miễn thuế và hạn ngạch. Trong nông nghiệp và NAMA đã đưa ra được một khuôn khổ cho thể thức đàm phán. Một số thoả thuận cụ thể cũng đã đạt được trong các lĩnh vực đàm phán khác. Mặc dù vậy Hội nghị Hồng Kông chưa giải quyết được những vấn đề đặt ra đối với đàm phán do vẫn còn những bất đồng sâu sắc trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là nông nghiệp. Hội nghị đã đưa ra một chương trình nghị sự chi tiết cho đàm phán trong năm 2006 và đặt mục tiêu kết thúc Vòng đàm phán vào cuối năm 2006. Tuy nhiên, vào tháng 07/2006 tiến trình đàm phán đã dừng toàn bộ. Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy đang nỗ lực kêu gọi các Thành viên nối lại đàm phán.
Vòng đàm phán Doha cho thấy sự bất đồng sâu sắc về quan điểm giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, giữa các nhóm lợi ích, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong tiến trình đàm phán, các nước đang phát triển thông qua các nhóm lợi ích đã có tiếng nói chung để thể hiện vị thế và bảo vệ quyền lợi của mình.
1.3.6. Những thách thức hiện nay đối với sự hợp tác thương mại toàn cầu
Thách thức đối với hợp tác thương mại toàn cầu trước hết là thách thức trong hợp tác thương mại đa phương. Vòng đàm phán Doha khởi xướng đã được sáu năm nhưng vẫn rơi vào bế tắc mặc dù đã nhiều lần gia hạn về việc kết thúc đàm phán. Sự bế tắc của Vòng đàm phán Doha đang đặt ra những thách thức cho hợp tác thương mại toàn cầu. Thứ nhất, nó làm chậm trễ tiến trình tự do hóa thương mại toàn cầu, điều đó sẽ có ảnh hưởng tiêu cực tới tăng trưởng, phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo cũng như làm trầm trọng thêm chênh lệch về trình độ phát triển giữa nước giàu và nước nghèo. Thứ hai, nó khuyến khích sự phục hồi của chủ nghĩa bảo hộ, điều đó sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai của nền kinh tế thế giới. Thứ ba, nó đang và sẽ dẫn đến khuynh hướng các nước ưu tiên đàm phán và ký kết các hiệp định Thương mại song phương hoặc khu vực với những cam kết tự do hóa mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên khuynh hướng đó có nguy cơ dẫn đến gia tăng tình trạng thương mại bất bình đẳng, bởi vì trong quá trình ký kết các hiệp định hợp tác khu vực các nước đang phát triển và kém phát triển có ít sức mạnh đàm phán hơn. Các nước này không những thiếu kinh nghiệm và các hỗ trợ kỹ thuật mà còn thiếu sức mạnh tập thể trong đàm phán thương mại song phương. Ngoài ra nhiều nước kém phát triển khác còn có thể bị loại ra khỏi hình thức hợp tác thương mại này. Thứ tư, các nước đang và kém phát triển sẽ bị thiệt thòi nhiều hơn do nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của họ. Trợ cấp và thuế quan cao như hiện nay của các nước đánh vào hàng nông sản sẽ gây khó khăn lớn cho các nước nghèo trong gia tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao thu nhập và mức sống của nông dân. Thứ năm, sự bế tắc của Vòng đàm phán này có nguy cơ dẫn đến sự gia tăng của tình trạng tranh chấp thương mại. Thứ sáu, nó đe dọa ảnh hưởng đến tiếng nói và vai trò của WTO với tư cách là tổ chức trung tâm điều phối hệ thống thương mại đa phương. Ngoài ra nó có thể dẫn đến nguy cơ chia rẽ trong WTO do hình thành những nhóm nước đàm phán có lợi ích xung đột nhau.
Những thách thức đối với hợp tác thương mại toàn cầu cũng chính là những thách thức đối với quá trình tự do hóa thương mại và toàn cầu hóa. Ở đây có nguồn gốc kinh tế và chính trị sâu xa của chủ nghĩa bảo hộ. Chính sách bảo hộ nông nghiệp của các nước công nghiệp phát triển không chỉ đơn thuần là lý do bảo đảm an ninh lương thực và thực phẩm mà còn do lý do chính trị. Tại các nước công nghiệp các chủ trang trại có tiếng nói mạnh mẽ và có sức mạnh chi phối đối với giới chức chính trị. Lĩnh vực khác còn có bế tắc trong đàm phán cũng chính là những lĩnh vực được ưu tiên bảo hộ của các nước.
Chú thích:
1 Nguồn: http://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/inbrief_e/inbr00_e.htm.
2 Bordo,Taylor and Williamson, 2003 và World Bank, 2002.
3 Giorgio Barba Navaretti (2006).
4 Mina Mashayekhi and Taisuke Ito: 2005. “Multilatilateralism and Regionalism: The New Interface”. Tr.3. http://www.unctad.org/en/docs/ditctncd20047_en.pdf.
5 Nguồn: http://www.ustr.gov/Trade_Agreements/Section_Index.html
6 Nguồn: http://trade.ec.europa.eu/doclib/docs/2006/december/tradoc_111588.pdf
6 Trương Đình Tuyển. Không có chuyện vào WTO là đổi đời ngay. http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/. 07/01/2007.
7 Hộp 1.2 được viết dựa trên các văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam, và dựa trên văn bản của Bộ Thương mại trình Quốc hội về “Báo cáo tóm tắt kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)”, ngày 24 tháng 11 năm 2006.
8 Lương Văn Tự. “Giới thiệu bộ văn kiện gia nhập WTO”. Trong Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO của Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 11.
9 Chi tiết Bộ thoả thuận này có thể tìm hiểu qua trang web: Bộ Thương mại. “Báo cáo tổng hợp về diễn biến và kết quả của Vòng đàm phán Doha (Phần 1, 2 và 3)”. http://www.mot.gov.vn/mot/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n162.uP
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Anke Hoeffler. Những thách thức đối với phục hồi và tái thiết cơ sở hạ tầng ở những nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi chiến tranh. Báo cáo Ngân hàng Phát triển Châu Phi, 1999.
APEC. Tổng hợp các hiệp định công nhận lẫn nhau có liên quan đến các nước Thành viên APEC. Nhóm Công tác về Tiếp cận thị trường APEC. 2003
APEC. Triển vọng kinh tế APEC. APEC Economic Committee, Singapore. 2003
APEC. Triển vọng kinh tế APEC. APEC Economic Committee, Singapore. 2004
Austria, Myrna S. Philipines trong môi trường thương mại toàn cầu: Nhìn lại và những thách thức ở phía trước. Viện Nghiên cứu Phát triển Philipines. 2003
Baldwin, R. E. Khu vực hoá và lý thuyết trò chơi domino.1995
Baldwin, R. E., P. Haaparanta and J. Kiander. Mở rộng Liên minh châu Âu. Cambridge University Press, New York.1995
Ban Thư ký WTO. Báo cáo thường niên. Geneva, năm 2002
Bhagirath Lal Das. Tổ chức Thương mại Thế giới. Hướng dẫn về khuôn khổ thương mại quốc tế. Zed Books & Third World Network.
Bijit Bora. WTO ITA Symposium. 18 October 2004
Bordo, D., A.M. Taylor and J.G. Williamson. Toàn cầu hoá dưới góc độ lịch sử. NBER and Chicago University Press. 2003.
Bộ Ngoại giao. Tổ chức Thương mại Thế giới. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2000.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Báo cáo nghiên cứu “Sự phù hợp của chính sách nông nghiệp Việt Nam với các qui định trong Hiệp định khu vực và đa phương”. Dự án Tăng cường năng lực hội nhập kinh tế quốc tế cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn- SCARDS II, 2005.
Bộ Thương mại. Báo cáo tóm tắt kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và phê chuẩn nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Văn bản trình Quốc hội ngày 24 tháng 11 năm 2006. http://www.na.gov.vn/vietnam/vankien/khoa11/ky10/bc-BoTM-gianhapWTO.doc
Bộ Thương mại. Báo cáo tổng hợp về diễn biến và kết quả của Vòng đàm phán Doha (Phần 1, 2 và 3). http://www.mot.gov.vn/mot/tag. idempotent.render.user- LayoutRootNode.target.n162.uP.
Bộ Thương mại. Kết quả Vòng đàm phán Uruguay về hệ thống thương mại đa phương. NXB Thống kê, Hà Nội 2000
Bộ Thương mại. Thương mại đầu tư Việt Nam trong tiến trình hội nhập WTO. 2005. Business Guide to the World Trading System
Bộ Tư Pháp. Đề cương giới thiệu Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005. www.moj.gov.vn/
Chia, Siow Yue. Mở rộng và tăng cường chiều sâu trong ASEAN. Trong tạp chí Asia Pacific Economy, 1 (1), 1996, Routledge, London.
Chiến lược phát triển ngành dệt may 2010; Lộ trình phát triển ngành công nghệ thông tin Việt Nam, Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam;…
Cục Sở hữu trí tuệ. Vấn đề sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập quốc tế và các vấn đề pháp lý, thực tiễn đặt ra cho Việt Nam. Bài tập huấn tại Phan Thiết tháng 11/2006
Doanh nghiệp Việt Nam trên tiến trình hội nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Nxb Văn hoá thông tin. 2006.
Donaldson, D. J., F. Sader and D. M. Wagle. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng – thách thức đối với các nước Nam và Đông. World Bank.1997.
Dunning, J. H. Tôn giáo, toàn cầu hoá và kinh tế tri thức. Oxford
University Press, London. 2002
Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên II (MUTRAP II). Từ điển chính sách thương mại quốc tế. Hà nội, 2005.
Dự án Hỗ trợ Thương mại Đa biên (MUTRAP II). Hỏi và đáp về WTO.
Hà Nội năm 2006.
Đánh giá về tình hình vi phạm bản quyền ở Việt Nam. VNMedia, ngày
8/11/2006
Đỗ Đức Định. Kinh tế đối ngoại – xu hướng điều chỉnh chính sách ở một số nước châu Á trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá. NXB. Thế giới.2003.
Ebrill, L., Stotsky, J., and R. Gropp. Tự do hoá thương mại và tác động
đối với Ngân sách Nhà nước. IMF Occasional Paper, No 180, 1999. EC. Kết luận của Hội đồng và Đại diện Chính phủ các nước Thành viên trong cuộc họp với Hội đồng Hỗ trợ thương mại. Brussels,
14/12/2005.
Eiteljurge, Uwe, and Clinton Shiells. Vòng đàm phán Urugoay và những nhà nhập khẩu thực phẩm. IMF Working Paper 95/143, 1995
Evenett S. WTO có thể thay đổi đế đáp ứng những thách thức của phát triển kinh tế?. Forthcoming in Aussenwirthschaft. 2005
Evenett S. Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Hồng Kông: Bước tiếp theo là gì?. University of St Gallen. 2006.
Feridhanusetyawan, Tubagus. Các hiệp định Thương mại ưu đãi trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương. IMF Working Paper 05/149.
2005
Finger, J.M., and P. Schuler. Thực hiện các cam kết Vòng Urugoay:
những thách thức đối với phát triển. The World Economy 23(4),
511-525. 2000
IMF. Báo cáo tiến độ thực hiện – Chiến lược Xoá đói giảm nghèo của
Uganda. IMF. 2004
Interaction. Tăng cường mối liên hệ giữa thương mại và phát triển thông qua việc định hướng lại hỗ trợ kỹ thuật xây dựng năng lực trong thương mại. Interaction Working Paper, Tháng 3/2005.
Jan Paul Acton. Đề xuất những quy định về chống bán phá giá và các vấn đề liên quan khác đối với Uỷ ban Thương mại. Nghị viện Mỹ,
04/1996
John H. Jackson. Hệ thống thương mại Thế giới, Luật và Chính sách của Quan hệ Kinh tế quốc tế. The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, London, Tái bản lần II.
Joon Hyung Kim and Chang Jae Lee (Chủ biên). Tăng cường hợp tác kinh tế khu vực Đông – Bắc Á. Korea Institute for International Economic Policy, Korea. 2004
Giorgio Barba Navaretti. Bằng sáng chế thương mại và vấn đề bảo vệ. http://econ.worldbank.org/WBSITE/EXTERNAL/EXTDEC/0,
menu PK:476823~pagePK:64165236~piPK:64165141 ~theSite
PK:469372,00.html. 2006.
Hồ Ngọc Minh. Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập. Báo điện tử, Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM tháng 9 năm 2004
Keen, M. and Lightart, J.E. Điều phối việc cắt giảm thuế quan và cải cách thuế trong nước. Nghiên cứu IMF WP/99/93, Washington D.C. 1999
Kim, Joongi. Tiểu khu vực hoá, khu vực hoá, liên khu vực: Tác động đối với hội nhập kinh tế và chính sách thương mại quốc tế. Asia Europe Journal (2003) 1: 183–196.
Lê Nết. ICSID còn gay hơn bán phá giá. Thời báo Kinh tế Sài Gòn tháng
07/2006.
Lê Xuân Thảo. Ðổi mới cơ chế thực thi, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ.
Nhân dân điện tử ngày 23/11/2006.
Liên hiệp quốc và Ngân hàng Thế giới. Sổ tay hướng dẫn “Tự do hoá các giao dịch quốc tế về Thương mại”. Năm 1994 (Handbook on “Liberalizing international Transactions in Services” of the United Nations and the World Bank, 1994).
Lương Văn Tự. Giới thiệu bộ văn kiện gia nhập WTO. Trong Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO của Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006
Lương Văn Tự. Hậu WTO – Thách thức với nông nghiệp và đói nghèo ở Việt Nam”. Chuyên trang WTO, xem tại http://wto.dddn.com.vn/ Web/ ContentDetail.aspx?distid=101&lang=vi-VN. 2005
PGS, TS Mai Hồng Quỳ, ThS Trần Việt Dũng. Luật Thương mại Quốc tế. Sách tham khảo; NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, năm
2005.
Michael B. Smith và Merritt R. Blakeslee. Thuật ngữ thương mại. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001.
Mina Mashayekhi and Taisuke Ito. Đa phương hoá và Khu vực hoá: Những điểm tương đồng mới. http://www.unctad.org/en/docs/ ditctncd20047_en.pdf. 2005
Ngân hàng Thế giới. Tài chính phát triển toàn cầu. Oasinhtơn D.C, năm
1999
Nguyễn Như Bình. Những vấn đề cơ bản của thể chế hội nhập kinh tế
quốc tế. Nhà xuất bản Pháp lý, Hà Nội, 2004.
GS.TS. Nguyễn Thị Mơ. Lựa chọn bước đi và giải pháp để Việt Nam mở
cửa về dịch vụ thương mại. NXB Lý luận chính trị, Hà Nội, năm
2005.
OECD. Đánh giá định lượng về lợi ích của Thuận lợi hoá thương mại.
TD/TC/WP(2003)31/FINAL, 11/2003
OECD. Tác động kinh tế của Thuận lợi hoá thuơng mại. TD/TC/WP (2005)12/ FINAL, 2005
OECD. Mối quan hệ giữa các hiệp định Thương mại khu vực và Hệ
thống Thương mại đa phương. TD/TC/WP (2002)17/FINAL, 2002
Phái đoàn Châu Âu. Thông cáo báo chí., Hà Nội ngày 20/3/2006
Plummer, M. G. Những Hiệp định Thương mại tự do song phương mới ở Đông – Bắc Á: Quá trình thực hiện và những trở ngại. Joon Hyung Kim and Chang Jae Lee (Chủ biên), Tăng cường hợp tác kinh tế khu vực Đông – Bắc Á, Viện Chính sách Kinh tế quốc tế Hàn Quốc. 2004
Raj Bhala. Luật Thương mại quốc tế. Lexis Nexis, bản dịch tiếng Việt, NXB Tư pháp, Hà Nội năm 2006
Raj Bhala. Luật thương mại quốc tế: Những vấn đề lý luận và thực tiễn.
NXB Tư pháp, 2006.
Ramses. Thế giới toàn cảnh 2001. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
2001
Ramses. Thế giới toàn cảnh 2003. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội năm
2003
Scollay R. Hội nhập kinh tế Đông Á và tác động đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Báo cáo hội thảo quốc tế tại Trung tâm APEC, Ôxtrâylia. 2003.
Scollay R. Tự doa hoá thương mại khu vực Đông Á và châu Á – Thái Bình Dương : Vai trò của Trung Quốc. Báo cáo hội thảo quốc tế tại PECC Trade Forum. 2006.
Shujiro Urata. Sự gia tăng các hiệp định Thương mại Tự do khu vực Đông Á. Bài viết cho hội thảo tại PECC Trade Forum in Jeju, Korea tháng 5/2005.
Soesastro Hadi. Những thách thức đối với chính sách thương mại APEC: Chương trình nghị sự DOHA và các hiệp định Thương mại khu vực/Song phương. http://www.csis.or.id/papers/wpe069. 2003.
Tạp chí Tia sáng số 24 ngày 20/12/2006
Than Mya. Sự hình thành các hiệp định Thương mại tự do khu vực Đông Á từ cuối những năm 1990: sự phản hồi của ASEAN. Bài viết cho hội thảo “Reaction of Southeast and East Asia to the proliferation of FTAs in East Asia region since the late of 1990s” tại Hanoi, 3/2005.
Thomas G. Field Jr. Trung tâm Luật Franklin Pierce ở New Hampshire.
Nhập môn sở hữu trí tuệ. http://www.piercelaw. edu/tfield/tgf.htm
Thomas J. Schoenbaum. Khái niệm Thị trường cạnh tranh và Chương trình nghị sự mới của Hệ thống Thương mại đa phương. 1996
Trung tâm Thương mại quốc tế. Hướng dẫn doanh nghiệp về Hệ thống Thương mại thế giới. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001, tr.251 – 292.
Trương Đình Tuyển. Không có chuyện vào WTO là đổi đời ngay. http://vietnamnet.vn/chinhtri/2007/01/651387/
Trương Đình Tuyển. Toàn cầu hóa kinh tế – cách tiếp cận, cơ hội và thách thức. Báo Nhân Dân Điện tử ngày 17/01/2005
Trường Đại học Luật Hà Nội. Giáo trình Luật Thương mại quốc tế.
NXB Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Từ diễn đàn Siatơn – toàn cầu hóa và WTO. NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2000
Tuyết Mai, Ngọc Sơn. Các nhóm đàm phán chính trong WTO: Nhóm Cairns và G-21. Bản tin Vòng đàm phán Doha. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên Bộ Thương mại, Số 4+5, tháng 12-2006.
UNCTAD. Phát triển và những vấn đề cần đặc biệt quan tâm đối với các nước đang phát triển sau Chương trình nghị sự Vòng đám phán.
<http://www.unctad.org/en/docs/tdb53d5_en.pdf>. 2006.
UNCTAD. UNCTAD và phát triển: Chặng đường phía trước. http://www.unctad.org/en/docs/tdsxxiiid6_en.pdf. 2006
UNCTAD. Bộ Quy tắc và Quy định kiểm soát RBPs.1980
UNCTAD. Báo cáo Đầu tư Thế giới. 2005, 2006.
UNCTAD. Chính sách cạnh tranh và những hình thức hạn chế kinh doanh. 1996
USAID và Ủy ban Quốc gia về Hợp tác Kinh tế Quốc tế. Tổng quan các vấn đề về tự do hóa thương mại dịch vụ. Hà Nội, năm 2006.
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Báo cáo phân tích chương trình nghị sự đàm phán mới của WTO. Hà Nội, năm 2002.
Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Các văn kiện cơ bản của Tổ
chức thương mại thế giới. Hà Nội. 2005.
Ủy ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Hỏi đáp về Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, năm 2004
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Các văn kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO của Việt Nam. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2006.
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Tìm hiểu Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). NXB Lao động – Xã hội, 2005.
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Sổ tay về Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2005.
Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế. Tổng quan các vấn đề tự
do hoá thương mại dịch vụ. Nxb Chính trị quốc gia, 2005.
Uỷ ban Thương mại quốc gia Thụy Điển và Uỷ ban Quốc gia về Hợp tác kinh tế quốc tế Việt Nam. Tác động của các hiệp định WTO đối với các nước đang phát triển. 2005.
Van Grasstek, Craig. “Hiện trạng và viễn cảnh các thoả thuận thương mại khu vực trong khối APEC”, Washington Trade Reports, Prepared for presentation at APEC 2004, Economic Outlook International Symposium on “FTAs/RTAs in the Asia-Pacific Region”, Santiago, Chile, (12-13/8/2004).
Văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam. Nxb Lao động – Xã hội. 2006.
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, UNDP – Dự án VIE
97/016. Gia nhập WTO: Vấn đề, thách thức và tác động đến khung pháp lý của Việt Nam. Hà Nội tháng 06/2000.
Viner J. Những vấn đề của Liên minh Hải quan. Carnegie Endowment for International Peace, New York. 1950.
Vụ Chính sách Thương mại Đa biên – Bộ Thương mại. Kết quả Vòng đàm phán Uruguay về Hệ thống Thương mại Đa phương. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội, 2000.
Vụ Chính sách Thương mại Đa biên – Bộ Thương mại. Báo cáo tóm tắt và cập nhật về diễn biến của Vòng Đàm phán Doha. Trang tin điện tử Bộ Thương mại, ngày 23/03/2004.
Walter Goode. Từ điển Chính sách Thương mại Quốc tế. Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Quốc tế, Đại học Adelaide, Australia, Báo Thương mại xuất bản, NXB Thống kê, 1997.
Wonnacott R. J. Thương mại và đầu tư trong hệ thống “Hub-and-Spoke”
và các Khu vực Thương mại tự do. The World Economy, 19 (3),
1996
World Bank. Toàn cầu hoá, tăng trưởng và đói nghèo. Báo cáo nghiên cứu chính sách. World Bank and Oxford University Press. 2002
WTO. Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới. http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/04-wto.doc. 1994
WTO. Những nguyên tắc của Hệ thống thương mại. http://www.wto.org/
english/ thewto_e/whatis_e/tif_e/fact2_e.htm
WTO. Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1947)”. http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/gatt47 e.doc.
WTO. Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS). http://www.wto.org/english/docs_e/legal_e/26-gats_01_e.htm# ArticleII. 1994
WTO. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). http://www.wto.org/english/docs_e/ legal_e/27-trips_03_e.htm#art4. 1994
WTO. Mối quan hế với các Tổ chức phi chính phủ và các Tổ chức dân sự. http://www.wto.org/english/forums_e/ngo_e/intro_e.htm 1994
WTO. Thương mại hướng về tương lai. http://www.wto.org/ english/
thewto_e/thewto_e.htm. 1999
WTO. WTO là gì? http://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/
whatis_e.htm.
WTO. Các thuật ngữ liên quan đến WTO. http://www.wto.org/ english/
thewto_e/glossary_e/glossary_e.htm
WTO. Tìm hiểu về WTO. http://www.wto.org/english/thewto_e/
whatis_e/tif_e/utw_chap1_e.pdf
WTO. Các hiệp định của WTO: Nông nghiệp; Dệt may; Công nghệ
thông tin
WTO – Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại. Bản tin
Vòng đàm phán Doha, số 1 tháng 12/2005.
WTO – Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại. Bản tin
Vòng đàm phán Doha, số 2+3, tháng 09/2006.
WTO. Đàm phán dịch vụ vì lợi ích của các nước đang phát triển trong
WTO. Geneva năm 2002
WTO. Dịch vụ và GATS – Bộ tài liệu đào tạo. Năm 1998
WTO. Báo cáo của Uỷ ban về Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại. 2006
WTO. Tìm hiểu WTO – Vòng đàm phán DOHA. http://www.wto.org/english/thewto_e/whatis_e/tif_e/doha1_e.htm. 2006
WTO. Hoàn thành Chương trình nghị sự Vòng đàm phán DOHA: những vấn đề chính đối với các nước đang phát triển. WTO Public Symposium. http://www.wto.org/english/tratop_e/dda_e/symp03 _melrose. ppt#256,1. 2003
WTO. Tuyên bố của Hội nghị Bộ trưởng WTO tại Singapore. Năm 1996
William Milberg. Chính sách Thương mại và Cạnh tranh. Khoa Kinh tế, Trường đại học New School, 11/2002 Y tế công lâm nguy: Hiệp định Thương mại Tự do Thái Lan – Hoa Kỳ có thể đe dọa việc tiếp cận thuốc chữa bệnh ở Thái Lan. www.oxfamamerica.org/…/briefing_papers/briefing_paper.2006– 04-19
SOURCE: VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI TRONG HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐA PHƯƠNG. MUTRAP, NXB. THƯƠNG MẠI. HÀ NỘI. 2007
Trích dẫn từ: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ CÔNG THƯƠNG
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: Chuyên đề WTO, TPP... |
Leave a Reply