admin@phapluatdansu.edu.vn

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN SỞ HỮU CỔ PHIẾU, TRÁI PHIẾU

TS. LÊ THỊ THU THỦY – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội

Trong nền kinh tế hiện nay, sự hiện diện của thị trường chứng khoán (TTCK) là một quy luật tất yếu khách quan. TTCK ra đời với hàng hoá giao dịch đặc trưng của nó là chứng khoán chính là kênh dẫn vốn vô cùng hiệu quả cho các doanh nghiệp, tạo sự luân chuyển nguồn vốn nhịp nhàng giữa người thừa vốn và người thiếu vốn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, TTCK là nơi biểu hiện tập trung rõ nét nhất các quy luật của nền kinh tế thị trường. Nếu không có những quy định đặc thù, những “luật chơi” riêng, những biện pháp bảo vệ nhà đầu tư, những người sở hữu chứng khoán thì thị trường này cũng không thể phát huy được hết vai trò to lớn của nó.

Ngược lại, những mặt trái của thị trường sẽ bị bộc lộ và để lại hậu quả khôn lường, dẫn đến một loạt những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật nảy sinh, xâm phạm đến quyền và lợi ích của mọi chủ thể trong xã hội. Để thị trường phát huy được những mặt tích cực của nó, việc bảo đảm được quyền sở hữu chứng khoán, đặc biệt là cổ phiếu, trái phiếu – những hàng hoá phổ biến hiện nay trên TTCK của tổ chức, cá nhân là điều hết sức cần thiết. Bài viết trình bày những vấn đề cơ bản liên quan đến quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu, các biện pháp bảo vệ quyền này.

1. Đặc điểm của cổ phiếu, trái phiếu

Có thể nói, quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu (chứng khoán) có những điểm đặc thù so với quyền sở hữu các loại tài sản khác, bởi lẽ, chứng khoán là những hàng hoá đặc thù của TTCK, là một loại quyền tài sản (theo Điều 181 Bộ Luật Dân sự), là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành, được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử (Khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán). Trong đó, cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành; trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Người sở hữu cổ phiếu là cổ đông và là chủ sở hữu công ty cổ phần, còn người sở hữu trái phiếu là chủ nợ của tổ chức phát hành. Những người này được gọi là nhà đầu tư chứng khoán khi họ tham gia các giao dịch mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán trên TTCK.

Chứng khoán có 3 đặc tính cơ bản là tính rủi ro, tính thanh khoản và tính sinh lợi. Tính rủi ro của chứng khoán được lý giải bởi nguyên nhân giá trị của chứng khoán có thể thay đổi do kết quả hoạt động kinh doanh của tổ chức phát hành, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý của nhà đầu tư khi tiếp cận và phân tích thông tin không chính xác. Vì vậy, khi sở hữu chứng khoán của tổ chức phát hành nào đó thì rủi ro đã được chuyển từ tổ chức phát hành sang người sở hữu chứng khoán (đặc biệt đối với cổ phiếu). Tính thanh khoản của chứng khoán giúp cho người sở hữu thực hiện được các quyền năng của mình (quyền định đoạt) thông qua việc chuyển chứng khoán thành tiền mặt hoặc tặng, cho, thừa kế. Tính sinh lợi của chứng khoán cho phép người sở hữu nó có thể nhận được những khoản lợi nhuận nhất định. Nhờ có đặc tính này mà chứng khoán, đặc biệt là cổ phiếu rất hấp dẫn nhà đầu tư. Họ tìm kiếm lãi vốn thông qua việc bán phần sở hữu của mình với giá cao hơn lúc mua khi có sự tăng trưởng về giá trị của doanh nghiệp phát hành hoặc họ tìm kiếm cổ tức khi doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận để phân phối cho các chủ sở hữu. Những đặc thù trên của chứng khoánsẽ là cơ sở để tiếp cận nội dung quyền sở hữu chứng khoán.

2. Cách tiếp cận về quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu

Khi bàn về quyền sở hữu chứng khoán, vấn đề đầu tiên cần xác định là bằng chứng để xác nhận quyền sở hữu chứng khoán là gì? Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, tư cách cổ đông của công ty cổ phần được xác định dựa trên căn cứ quyền sở hữu cổ phần. Công ty cổ phần lập và lưu giữ sổ đăng ký cổ đông như một văn bản chứng minh về quyền sở hữu cổ phần của mỗi cổ đông. Công ty phát hành cổ phiếu để xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty. Vậy bằng chứng để xác nhận một người đang có quyền sở hữu đối với cổ phiếu (khi chưa niêm yết) là người đó phải được ghi tên vào sổ đăng ký cổ đông của công ty cổ phần và có Sổ chứng nhận sở hữu cổ phần hoặc Sổ cổ đông, trong đó khẳng định số lượng cổ phần và loại cổ phần nhất định sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, có nhiều công ty chỉ cấp cho cổ đông góp vốn một loại chứng từ kế toán gọi là “Phiếu thu” hoặc chỉ ghi tên cổ đông góp vốn trong sổ đăng ký cổ đông thì điều này là hoàn toàn chưa đủ, không đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của những người góp vốn. Đối với chứng khoán đã niêm yết thì bằng chứng cho việc sở hữu chứng khoán là bản Sao kê tài khoản giao dịch chứng khoán do công ty chứng khoán nơi nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch cấp, trong đó xác định số chứng khoán thuộc sở hữu của nhà đầu tư.

Ngoài ra, nội dung của quyền sở hữu chứng khoán là vấn đề cơ bản khi nghiên cứu về sở hữu chứng khoán. Hiện nay quyền sở hữu các loại chứng khoán nêu trên được điều chỉnh chủ yếu bởi các đạo luật sau đây: Bộ Luật Dân sự, Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán. Vì vậy, quyền sở hữu chứng khoán cũng thường được nhìn nhận bao gồm ba quyền năng: quyền chiếm hữu (nắm giữ, quản lý), quyền sử dụng (khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức), quyền định đoạt (chuyển giao quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu). Tuy nhiên, biểu hiện của các quyền năng trên rất đa dạng và rất khác nhau, tuỳ thuộc vào mục đích của người sở hữu chứng khoán, loại chứng khoán là cổ phiếu hay trái phiếu, chứng khoán niêm yết hay chưa niêm yết.

Có thể nói, về cơ bản, quyền sở hữu chứng khoán bao gồm các quyền sau đây:

– Quyền nhận lợi nhuận từ việc sở hữu chứng khoán

Đây là quyền của người sở hữu chứng khoán xuất phát từ đặc thù của chứng khoán có tính sinh lợi. Có thể nói, tuỳ thuộc vào mục đích của người sở hữu chứng khoán mà họ có thể nhận lợi nhuận dưới các góc độ khác nhau. Nếu người sở hữu chứng khoán có ý định nắm giữ chứng khoán trong thời gian dài thì mức lợi nhuận được hưởng sẽ là lãi suất (nếu sở hữu trái phiếu), hoặc cổ tức (nếu sở hữu cổ phiếu) do tổ chức phát hành chi trả (tuy nhiên còn phải phụ thuộc vào các điều kiện như hiệu quả hoạt động của công ty phát hành,…). Trong trường hợp này, người sở hữu vừa có các quyền và lợi ích của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản là chứng khoán, vừa có quyền và lợi ích của cổ đông (nếu sở hữu cổ phiếu) hoặc quyền và lợi ích của chủ nợ (nếu sở hữu trái phiếu) đối với tổ chức phát hành đó. Ngược lại, nếu người sở hữu chỉ quyết định nắm giữ các chứng khoán đó trong thời gian hạn chế, khi giá trị chứng khoán tăng sẽ bán ra thị trường thì lợi nhuận thu được từ việc sở hữu chứng khoán chủ yếu là mức chênh lệch giữa giá mua hoặc vốn bỏ ra ban đầu và giá bán. Trong trường hợp này, quyền sở hữu chứng khoán được thể hiện chủ yếu ở quyền quyết định mua, bán chứng khoán để kiếm lợi.

Về nguyên tắc, công ty cổ phần chỉ trả cổ tức cho các cổ đông khi công ty đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật, trích lập các quỹ của công ty và bù đắp đủ lỗ trước theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Ngay sau khi trả hết số cổ tức đã định, công ty vẫn phải bảo đảm thanh toán đầy đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản đến hạn (Điều 93 Luật Doanh nghiệp). Mức cổ tức thanh toán hàng năm cho mỗi loại cổ phần do đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) quyết dịnh phù hợp với Luật Doanh nghiệp và các quyền gắn liền với loại cổ phần đó. Trong trường hợp người sở hữu được nhận cổ tức không phải bằng tiền mà bằng cổ phiếu thưởng thì phải tuân theo tỷ lệ được thông qua tại cuộc họp của ĐHĐCĐ thường niên. Tuy nhiên, các cổ đông trong trường hợp này có xu hướng thiên về lợi ích ngắn hạn của riêng mình mà không chú ý đúng mức đến lợi ích phát triển lâu dài của công ty và tiềm năng của chính họ. Việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, tính theo mệnh giá, chứ không phải là giá cổ phiếu khi đang lên. Vì vậy đã làm giảm giá trị cổ phần của công ty (hiện tượng pha loãng cổ phiếu), làm tăng cung về cổ phiếu. Điều này hoàn toàn không có lợi cho công ty, cũng như cho chính các cổ đông.

– Quyền tham dự và phát biểu tại ĐHĐCĐ và quyền biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được uỷ quyền (trừ trường hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức và cổ phần ưu đãi hoàn lại): đây là quyền cơ bản đối với người sở hữu cổ phiếu với tư cách đồng thời là chủ sở hữu công ty cổ phần. Luật pháp hiện hành đã có các quy định để đảm bảo quyền này như: về sự gia hạn của cuộc họp ĐHĐCĐ thường niên (có thể không quá 6 tháng kể từ ngày kết thúc năm tài chính), về triệu tập cuộc họp ĐHĐCĐ bất thường, về thông báo dự họp, trình tự, thủ tục triệu tập ĐHĐCĐ, về kiến nghị nội dung liên quan đến chương trình họp….

– Quyền được cung cấp thông tin: Đây là quyền đặc trưng của người sở hữu chứng khoán so với sở hữu các loại tài sản khác. Khi sở hữu chứng khoán nào đó, người sở hữu có toàn quyền hưởng lợi do chứng khoán đem lại. Người sở hữu chứng khoán muốn thực hiện được các quyền năng của mình như quyền định đoạt đối với chứng khoán (khi mua, bán, chuyển nhượng) thường phải dựa vào những thông tin nhất định về tổ chức phát hành chứng khoán, về số lượng chứng khoán và giá cả của chứng khoán đang giao dịch trên thị trường…. Có thể khẳng định, TTCK là thị trường của những thông tin, dựa vào đó người ta có thể thực hiện các giao dịch đối với chứng khoán. Vì vậy, luật pháp yêu cầu các chủ thể tham gia TTCK phải công bố thông tin chính xác, kịp thời, trung thực và đầy đủ, trên cơ sở đó người đầu tư đưa ra quyết định theo hướng có lợi nhất cho mình. ở đây, cần nhấn mạnh rằng, quyền được cung cấp thông tin là nội hàm của quyền sở hữu chứng khoán, phụ thuộc vào đặc thù của chứng khoán là một loại quyền tài sản, rất khó xác định giá trị trên thực tế, thường phải dựa vào các thông tin liên quan đến chứng khoán đó để phân tích, đánh giá.

– Quyền tự do chuyển nhượng, mua, bán chứng khoán (phụ thuộc vào loại chứng khoán), quyền tặng cho, thừa kế chứng khoán: đây là quyền cơ bản của người sở hữu chứng khoán, gắn với đặc tính thanh khoản của chứng khoán.

Người sở hữu chứng khoán có quyền tham gia thị trường thông qua việc đầu tư (mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán) trên thị trường chứng khoán, tuy nhiên phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục gia nhập thị trường (ví dụ, khi thực hiện giao dịch chứng khoán phải mở tài khoản, lưu ký chứng khoán), bảo đảm các tỷ lệ nắm giữ khi sở hữu chứng khoán trong các ngành nghề khác nhau (VD, đối với cổ phiếu của Ngân hàng thương mại cổ phần thì một cá nhân không được sở hữu quá 10% vốn điều lệ của ngân hàng, một tổ chức không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của ngân hàng, đối với nhà đầu tư nước ngoài, tổng mức sở hữu cổ phần của đối tượng này và những người liên quan không quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng đó).

Về nguyên tắc, người sở hữu chứng khoán có quyền tự do chuyển nhượng chứng khoán, trừ một số trường hợp ngoại lệ bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty. Đây là biểu hiện của quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp quy định. Người sở hữu chứng khoán có quyền quyết định mua, bán chứng khoán nhằm mục đích thu lợi hoặc có quyền tặng, cho, thừa kế chứng khoán. Tuy nhiên, quyền này được thực hiện đối với chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết là khác nhau. Đối với các chứng khoán chưa niêm yết thì giao dịch theo thoả thuận, tuân thủ quy định của Bộ Luật Dân sự và Luật Doanh nghiệp, còn đối với chứng khoán niêm yết trên SGDCK thì khi chuyển nhượng người sở hữu phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định theo quy định của Luật Chứng khoán: về phương thức giao dịch chứng khoán, ví dụ phải thông qua trung gian trên TTCK (hiện ở Việt Nam là các công ty chứng khoán), tuân thủ quy trình giao dịch; về giao dịch cổ phiếu của cổ đông nội bộ phải báo cáo bằng văn bản cho sàn giao dịch chứng khoán (SGDCK) ít nhất 10 ngày làm việc trước ngày thực hiện giao dịch; về giao dịch cổ phiếu quỹ (theo tỷ lệ nhất định và công ty chỉ được bán cổ phiếu quỹ sau sáu tháng kể từ ngày kết thúc đợt mua lại gần nhất, trừ trường hợp bán cho người lao động trong công ty hoặc dùng làm cổ phiếu thưởng (Thông Tư 18/2007/TT – BTC về mua, bán lại cổ phiếu và một số trường hợp phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng); về giao dịch cổ phiếu của cổ đông lớn, giao dịch thâu tóm công ty niêm yết cũng có những đặc thù nhất định.

Hiện nay, thời gian quy định thanh toán bù trừ chứng khoán là T +3 trên Sở GSCK, có nghĩa là người sở hữu chứng khoán khi bán chứng khoán chỉ có thể nhận được tiền hoặc khi mua chứng khoán chỉ nhận được chứng khoán trên tài khoản của mình tại công ty chứng khoán nơi mở tài khoản giao dịch sau 3 ngày kể từ thời điểm được khớp lệnh. Điều này cho thấy quyền định đoạt chứng khoán bị hạn chế. Sau 3 ngày trên nhà đầu tư chứng khoán mới có thể thực hiện được quyền năng tiếp theo của chủ sở hữu như bán, chuyển nhượng chứng khoán mua được hoặc có quyền định đoạt số tiền trên tài khoản của mình. Nên chăng, luật pháp cần sửa đổi để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, người sở hữu chứng khoán.

Ngoài ra, cần phân biệt giữa chuyển nhượng cổ phiếu và chuyển nhượng quyền mua cổ phần. Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định (Khoản 5 Điều 6 Luật chứng khoán). Quyền mua được giao dịch trên thị trường trong thời hạn nhất định. Những cổ đông không có ý định thực hiện quyền mua có thể tách quyền mua để bán riêng. Số quyền mua cần có để mua một cổ phiếu mới sẽ được căn cứ vào số lượng cổ phiếu hiện hành và số lượng C mới được chào bán (ví dụ 5 quyền mua sẽ mua được 1cổ phiếu mới). Trên thực tế, người nhận chuyển nhượng quyền mua cổ phần có thể “coi” quyền mua cổ phiếu là cổ phần và đã trả giá chuyển nhượng cho quyền mua ngang bằng với thị giá của cổ phần.

Bên cạnh đó, cần lưu ý việc chuyển nhượng chứng khoán niêm yết cho một chủ thể đích danh nào đó (chuyển nhượng nội bộ chứng khoán giữa các cổ đông của công ty niêm yết, tặng cho, thừa kế CK niêm yết). Liệu trong trường hợp này có bắt buộc phải qua trung gian không? Điểm b Khoản 1 Điều 41 Luật chứng khoán Việt Nam ghi rõ: chứng khoán niêm yết tại SGDCK không được giao dịch bên ngoài SGDCK, trừ trường hợp quy định tại quy chế giao dịch chứng khoán của SGDCK. Trong quy chế giao dịch chứng khoán tại SGDCK Thành phố Hồ Chí Minh ban hàn kèm theo Quyết định số 25/QĐ – TTGDHCM ngày 17/4/2007 của Giám đốc TTGDHCM, điều 3 chỉ quy định như sau: chứng khoán niêm yết tại thị trường này được giao dịch thông qua hệ thống giao dịch của Sở, ngoại trừ các trường hợp cho, biếu, tặng, thừa kế. Vậy theo Pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về việc chuyển nhượng trên.

Pháp luật về chứng khoán trên thế giới đều có quy định ngoại lệ cho các trường hợp chuyển nhượng trên (không phải thông qua trung gian). Tuy nhiên, điều này chỉ được thực hiện khi tuân thủ các tiêu chí nhất định như: việc chuyển nhượng không vì mục tiêu vụ lợi (nhằm bảo đảm sự công bằng cho những nhà đầu tư khác khi mua bán chứng khoán qua TTCK, bởi lẽ có thể xảy ra trường hợp chuyển nhượng trực tiếp vì mục đích thâu tóm DN niêm yết, thao túng giá cả); hoặc hoạt động chuyển nhượng này không phải là thường xuyên, phải được thanh toán bằng tiền mặt trực tiếp (ở Pháp).

– Quuyền cầm cố chứng khoán và thực hiện các giao dịch repo: Người sở hữu chứng khoán có quyền vay vốn ở các tổ chức, cá nhân và dùng tài sản bảo đảm là các chứng khoán để cầm cố, bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho các khoản tín dụng đó. Bên cạnh đó, chủ sở hữu chứng khoán cũng có quyền thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán có kỳ hạn trong một khoảng thời gian thoả thuận nhất định với công ty chứng khoán khi họ có nhu cầu về vốn mà không muốn bán “đứt” chứng khoán của mình. Hết thời hạn đó, người đầu tư có thể mua lại số lượng chứng khoán đã bán này từ Công ty chứng khoán với mức giá xác định trước tại thời điểm bán chứng khoán.

– Quyền góp vốn bằng chứng khoán để thành lập công ty: đây cũng là quyền của chủ sở hữu chứng khoán. Khi thực hiện quyền này phải tuân thủ các điều kiện về góp vốn, xác định giá trị phần vốn góp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

– Quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty

– Khi công ty giải thể, phá sản, chủ sở hữu cổ phiếu được nhận phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp vốn vào công ty.

– Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản công ty cổ phần đối với cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng, trừ trường hợp Điều lệ của công ty có quy định khác.

– Quyền sở hữu chứng khoán trong một số trường hợp đặc biệt:

Quyền sở hữu chứng khoán trong các ngày giao dịch đặc biệt (khi công ty chốt danh sách thực hiện quyền mua cổ phiếu phát hành thêm, trả cổ tức…): người mua sau ngày giao dịch không hưởng quyền không được hưởng các quyền phát sinh từ chứng khoán mà các quyền này thuộc người sở hữu chứng khoán trước đó, mặc dù thời điểm chuyển quyền diễn ra sau thời điểm chuyển quyền sở hữu.

Ngoài ra, trong trường hợp bán khống chứng khoán (bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán) hoặc khi nhà đầu tư thực hiện các giao dịch ký quỹ chứng khoán cũng chưa có quy định cụ thể của pháp luật về vấn đề này, vì vậy quyền lợi của người sở hữu chứng khoán ở đây cũng không rõ.

3. Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu

Các biện pháp mang tính chất truyền thống hay được sử dụng để bảo vệ quyền sở hữu đó là:

– Truy tìm và đòi lại tài sản: chứng khoán là một loại tài sản đặc biệt, có thể bị mất cắp, bị các chủ thể quản lý chứng khoán xâm phạm. Vì vậy, khi thấy trong tài khoản bị mất chứng khoán hoặc tiền, chủ sở hữu có quyền truy tìm tài sản của mình. Chủ sở hữu có quyền yêu cầu công ty chứng khoán hoặc ngân hàng thương mại nơi mở tài khoản phải hoàn trả lại số tài sản bị sử dụng bất hợp pháp đó. Trong trường hợp này, nhà đầu tư sẽ có nghĩa vụ chứng minh mình là chủ sở hữu hợp pháp của tài khoản, chứng minh sự thiếu hụt của số dư tiền và chứng khoán có trong tài khoản, và yêu cầu được hoàn trả số tiền hoặc chứng khoán thiếu hụt.

– Yêu cầu ngăn chặn hoặc chấm dứt hành vi trái pháp luật đối với quyền năng chủ sở hữu: Trên thực tế, có nhiều nhà đầu tư không thể thực hiện được quyền năng sở hữu chủ đối với chứng khoán của mình vì công ty chứng khoán báo lỗi, không truy cập được tài khoản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, đây là trách nhiệm của công ty chứng khoán, chứ không phải là do lỗi hệ thống. Vì vậy, khi nhà đầu tư không thể tiếp cận tài khoản của mình để đặt lệnh mua bán chứng khoán, hoặc số dư chứng khoán hoặc số dư tiền trong tài khoản bị phong tỏa trái pháp luật, hoặc phong tỏa không theo lệnh của chủ tài khoản, chủ tài khoản có quyền thông báo hành vi cản trở này và yêu cầu đơn vị cung cấp dịch vụ phải chấm dứt các hành vi đó để nhà đầu tư có thể thực hiện quyền năng chủ sở hữu. Trong trường hợp này, luật pháp cần quy định rõ cơ chế bảo vệ quyền lợi của chủ sở hữu chứng khoán và trách nhiệm của các tổ chức thực hiện các giao dịch chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán.

– Biện pháp kiện đòi bồi thường thiệt hại, biện pháp thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hoà giải, Toà án, Trọng tài, biện pháp hình sự. Nhà đầu tư – người sở hữu chứng khoán trong trường hợp có tranh chấp với các trung gian tài chính trên thị trường (công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại) hoặc các chủ thể khác nếu thương lượng không được, hoà giải không thành thì có thể khởi kiện tại cơ quan toà án hoặc trọng tài để yêu cầu giải quyết. Đây được coi là biện pháp phổ biến để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư- chủ sở hữu chứng khoán. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định về năng lực thẩm phán và phụ thuộc vào đặc điểm của mô hình toà án ở Việt Nam mà hiện nay việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đặc thù này vẫn chưa được thực hiện bởi những toà án chuyên trách như một số nước trên thế giới (ví dụ Thái Lan). Do vậy, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp cũng như việc bảo vệ quyền của chủ sở hữu chứng khoán chưa được bảo đảm ở mức tối đa.

Đối với người sở hữu chứng khoán niêm yết và được giao dịch trên TTCK tập trung, các biện pháp bảo vệ đa dạng hơn. Đây chính là các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư trên TTCK. Quyền lợi của họ được bảo vệ bởi:

– Các nguyên tắc hoạt động của TTCK;

– Các quy định về việc công bố thông tin;

– Các quy định về tổ chức giao dịch chứng khoán, tổ chức và hoạt động của SGDCK;

– Các nguyên tắc hoạt động của CTCK: tách biệt tiền và tài sản của khách hàng với tiền và tài sản của công ty chứng khoán; ưu tiên quyền lợi của khách hàng lên trên quyền lợi của công ty chứng khoán;

– Các quy định về quản lý chào bán chứng khoán ra công chúng, quản lý niêm yết, đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ chứng khoán;

– Các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.

Trên đây là một số nội dung cơ bản liên quan đến quyền sở hữu cổ phiếu, trái phiếu. Đây là quyền rất quan trọng của công dân, là yêu cầu khách quan của cuộc sống, nếu thiếu nó sự phát triển kinh tế sẽ bị ngưng trệ. Do vậy, nhà nước cần có các biện pháp bảo vệ tốt hơn nữa, thể hiện sự tôn trọng quyền sở hữu chính đáng của người dân (có thể bằng cách Luật hoá cơ chế bảo vệ quyền sở hữu chứng khoán bằng một đạo luật riêng).

SOURCE: TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU LẬP PHÁP ĐIỆN TỬ

Trích dẫn từ: http://www.nclp.org.vn/chinh_sach/nhung-van-111e-co-ban-ve-quyen-so-huu-co-phieu-trai-phieu

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading