UNDP VIỆT NAM (NAILA KABEER – TRẦN THỊ VÂN ANH BIÊN SOẠN)
Nghiên cứu này đề cập đến ý nghĩa của toàn cầu hoá đối với vấn đề giới và đói nghèo trong bối cảnh của Việt Nam. Ngày càng có nhiều lý thuyết về mối quan hệ này do chúng thường diễn ra trong các nước đang, hoặc đã chuyển từ một nền kinh tế thị trường bị quản lý chặt sang tự do hơn. Điểm khác biệt trong bối cảnh của Việt Nam là việc hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế toàn cầu diễn ra như là một khía cạnh của sự thay đổi cơ bản hơn nhiều về chế độ chính sách: quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với vai trò chi phối của Nhà nước trong mọi lĩnh vực của cuộc sống kinh tế, xã hội sang một nền kinh tế chú trọng hơn đến các lực lượng thị trường cả trong và ngoài nước.
Năm 1986, đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế, Việt Nam phát động một chương trình đổi mới kinh tế với mục tiêu tạo ra tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội thông qua việc cải cách hợp tác xã nông nghiệp nhằm tạo thuận lợi cho sản xuất hộ gia đình, mở cửa kinh tế đối với đầu tư và thương mại nước ngoài, tự do hoá giá cả, giảm vai trò của khu vực Nhà nước đi đối với khuyến khích doanh nghiệp tư nhân.
Cuộc cải cách kinh tế đã thu được thành công đáng chú ý. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của tổng sản phẩm quốc nội GDP tăng từ 2,3% năm 1986 lên mức trung bình 7,6% năm trong giai đoạn 1993-2005. Khu vực công nghiệp chế tạo dẫn đầu về tăng trưởng. Trong 14 năm qua, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng của khu vực chế tạo đạt mức trung bình 11% năm, so với 4% trong nông nghiệp và 7% của khu vực dịch vụ.
Xuất khẩu đã tăng nhanh chóng trong giai đoạn này, đạt mức đầy ấn tượng 21% năm trong giai đoạn 1993-2003. Tính đến 2003, kim ngạch xuất khẩu chiếm 60% GDP. Trong khi hàng xuất khẩu nông sản chiếm đa số trong những năm đầu, thì tính đến 2002 tỉ trọng của nhóm hàng này trong kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đã giảm còn 22%. Đồng thời, tỉ trọng hàng chế tạo đã tăng lên trên 50%. Năm 2004, chỉ riêng dệt may đã chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tăng trưởng kinh tế đi liền với việc giảm nghèo nhanh chóng. Cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam diễn ra trong bối cảnh có nhiều điều kiện thuận lợi ban đầu cho việc giảm nghèo, bao gồm việc phân phối tài sản và thu nhập tương đối đồng đều, sự hỗ trợ cao của Nhà nước đối với đầu tư xã hội. Các chỉ báo phát triển con người như Chỉ số phát triển con người (HDI) của Liên hợp quốc (UNDP) thể hiện nhất quán rằng Việt Nam đã đạt kết quả tốt hơn so với các nước có cùng mức, thậm chí cao hơn về thu nhập đầu người.1 Tỉ lệ nghèo đã giảm từ 60% trước đổi mới xuống còn 24% vào năm 2004. Tuy nhiên, những thành tựu này không được phân bổ một cách đồng đều. Trong khi một số yếu tố như giáo dục, qui mô hộ gia đình, dân tộc và khu vực địa lý giúp giải thích sự khác biệt về tỉ lệ hộ nghèo, thì sự chênh lệch lớn nhất xảy ra giữa khu vực thành thị và nông thôn. Theo báo cáo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng Thế giới, “với các điều kiện khác giống nhau, hộ gia đình ở thành thị chi tiêu cao hơn 78% so với hộ nông thôn. Tác động này làm lu mờ tất cả các yếu tố khác, kể cả về trình độ học vấn cao hơn” (World Bank 2003, 23).
Giảm nghèo, nhất là ở nông thôn, vẫn là một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam. Do tốc độ tăng dân số cao trong quá khứ, Việt Nam là nước đông dân thứ 12 trên thế giới, với tổng dân số 81,3 triệu người và lực lượng lao động 43,3 triệu người năm 2003. Mặc dù tốc độ tăng dân số đã giảm, thì với cơ cấu dân số trẻ của Việt Nam có nghĩa là sẽ có khoảng 1 triệu người tham gia lực lượng lao động mỗi năm (Đặng Nguyên Anh, 2000, 67). Dân số nông thôn chiếm 75% dân số và trên 90% người nghèo (World Bank 2005, 14). Tỉ trọng lao động nông nghiệp đã giảm từ 72% năm 1993 xuống 55% năm 2004. Nhưng với khoảng 1.000 người/km2 đất canh tác, khu vực trồng trọt vẫn là một khu vực đông đúc nhất trên thế giới.
Tâm điểm của mục tiêu giảm nghèo vì thế là tạo đủ việc làm và đủ việc làm được trả lương tốt, nhằm giảm thất nghiệp và cả thất nghiệp trá hình, nhất là ở khu vực nông thôn và hấp thụ số mới tham gia lực lượng lao động. Nhiều hộ gia đình nông thôn đã chọn cách di cư, tập thể hoặc cá nhân, đến các khu vực thành thị để kiếm việc làm. Trước đổi mới, việc di cư đến các thành phố bị kiểm soát chặt chẽ thông qua hệ thống giấy phép thường trú, bắt buộc những người di cư phải đăng ký với chính quyền thành phố. Những hạn chế về đi lại đã được dỡ bỏ, mặc dù những người di cư vẫn cần phải có được giấy phép tạm trú ở nơi mà họ đến.
Tăng trưởng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp là thấp so với tăng trưởng sản lượng và so với các nước định hướng xuất khẩu khác trong khu vực. Cách giải thích thường gặp về tốc độ tăng việc làm chậm trong công nghiệp chế tạo là chính sách của chính phủ thiên về đầu tư sử dụng nhiều tư bản, đặc biệt là trong khu vực Nhà nước (Belser 2000; Steer và Tausig 2002). Tuy nhiên, Jenkins (2004) lập luận rằng lý do chính của tốc độ tăng việc làm chậm là năng suất lao động trong giai đoạn khởi đầu đổi mới của Việt Nam ở mức quá thấp. Sự gia tăng năng suất lao động đã ngăn cản các doanh nghiệp chế tạo không thuê thêm lao động. Nếu cách giải thích này là đúng, thì chúng ta có thể kỳ vọng tốc độ tăng việc làm sẽ tăng lên khi năng suất lao động đuổi kịp mức chuẩn khu vực.
Chú thích:
1 Năm 2003, Việt Nam xếp hạng thứ 108 về HDI, cao hơn so với Indonesia, Ai cập và Nam Phi 7
CÁC BẠN ĐỌC TOÀN BỘ VĂN KIỆN TẠI ĐÂY (SỬ DỤNG DỤNG PHẦN MỀM ACROBAT PDF).
SOURCE: Văn kiện đối thoại chính sách của UNDP (Biên soạn Naila Kabeer và Trần Thị Vân Anh). Ngày xuất bản: 2006-05-30
Trích dẫn từ: http://www.undp.org.vn/undpLive/System/Publications/Publication-Details?contentId=1819&languageId=4&categoryName=&CategoryConditionUse=
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN |
Leave a Reply