Kính gửi: Quốc hội
Thực hiện Nghị quyết số 11/2007/NQ-QH12 ngày 21 tháng 11 năm 2007 của Quốc hội khóa XII về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII và năm 2008, Chính phủ xin trình Quốc hội Dự án Luật Bồi thường nhà nước với nội dung chủ yếu sau đây:
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC
1. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống pháp luật, bước đầu đáp ứng được những yêu cầu cơ bản của quản lý nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có pháp luật về trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước đối với các thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra trong khi thi hành công vụ. Hiến pháp năm 1992 quy định: “Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, bị xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự” (Điều 72); “Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi về danh dự” (Điều 74). Bộ luật Dân sự năm 1995 đã dành hai điều 623 và 624 để quy định trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước và các quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Bộ luật dân sự năm 2005 (Điều 619 và Điều 620). Để cụ thể hóa các quy định nêu trên, đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành như: Nghị định số 47/CP ngày 3 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47); Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày 17 tháng 3 năm 2003 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 388). Các Bộ, ngành có liên quan cũng đã ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước và người tiến hành tố tụng (sau đây gọi chung là người thi hành công vụ) gây ra.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra còn có nhiều hạn chế, bất cập như: hình thức văn bản quy phạm pháp luật quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra có hiệu lực pháp lý không cao; pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra chưa được xây dựng trên quan điểm coi đây là trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói chung mà chỉ coi là trách nhiệm bồi thường của từng cơ quan nhà nước cụ thể (cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại); cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường trong nhiều trường hợp chưa được xác định rõ và đặc biệt là chưa quy định cụ thể trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nên việc giải quyết bồi thường không đạt được kết quả như mong muốn; các loại thiệt hại được bồi thường, mức bồi thường và nhiều vấn đề liên quan khác được pháp luật quy định không thống nhất, chưa hợp lý, gây bất lợi cho cả cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước lẫn người bị thiệt hại; trách nhiệm hoàn trả của công chức chưa được quy định rõ ràng.
2. Tổng kết thực tiễn cho thấy, Nghị định số 47 hầu như không phát huy tác dụng, chưa được áp dụng để giải quyết bồi thường thiệt hại trong các lĩnh vực tố tụng hình sự, dân sự và hành chính. Trong hoạt động quản lý hành chính, kết quả thi hành Nghị định này cũng rất hạn chế. Tổng hợp báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương cũng chỉ ra rằng: việc giải quyết bồi thường của các cơ quan hành chính nhà nước chủ yếu được thực hiện gắn với thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà không trực tiếp áp dụng Nghị định số 47; số lượng vụ việc được giải quyết bồi thường không tương xứng so với yêu cầu thực tế, cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2007 mới có khoảng 170 vụ việc được giải quyết, với số tiền bồi thường là hơn 16 tỷ đồng; ở một số Bộ, ngành, địa phương chưa có trường hợp nào áp dụng Nghị định số 47 để giải quyết yêu cầu bồi thường. Đối với bồi thường thiệt hại cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự theo quy định của Nghị quyết số 388, tính đến hết năm 2007 (sau 04 năm thi hành), các cơ quan tiến hành tố tụng đã giải quyết được gần 200 vụ, với số tiền phải bồi thường là gần 15 tỷ đồng. Việc ban hành Nghị quyết này đã được dư luận nhân dân ủng hộ và đồng tình cao. Tuy nhiên, do phạm vi điều chỉnh hẹp (chỉ bồi thường cho các trường hợp bị oan trong tố tụng hình sự), cho nên tác động của Nghị quyết này còn hạn chế.
Từ thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra và thực tiễn thi hành cho thấy pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập; chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu tính khả thi, do vậy, việc ban hành Luật Bồi thường nhà nước là cần thiết. Đồng thời, việc ban hành Luật bồi thường nhà nước cũng là nhằm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Một trong các nội dung quan trọng về định hướng xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật được quy định trong Nghị quyết này là xây dựng và hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, trong đó có quyền được bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ; chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là của Toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; khắc phục việc xử lý oan, sai; khẩn trương ban hành Luật bồi thường nhà nước.
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC
Để xây dựng Dự án Luật này, Chính phủ đã giao Bộ Tư pháp thành lập Ban soạn thảo gồm đại diện lãnh đạo các cơ quan: Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Thanh tra Chính phủ và đã chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo tổ chức thực hiện các hoạt động chủ yếu sau đây:
1. Hệ thống hoá các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Nhà nước ta về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra và đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các văn bản quy phạm pháp luật này;
2. Phối hợp với Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong thời gian qua;
3. Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài về bồi thường nhà nước, so sánh, đối chiếu với các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng của nước ta;
4. Đánh giá dự báo tác động kinh tế – xã hội của Luật Bồi thường nhà nước, nghiên cứu và đề xuất phương hướng, cách thức, nguyên tắc xác định phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta hiện nay;
5. Tổ chức các hội thảo khoa học có sự tham gia của các chuyên gia pháp luật trong nước và nước ngoài, đại diện các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, xã hội; xã hội, nghề nghiệp, các doanh nghiệp và cá nhân ở các vùng miền khác nhau trong cả nước để trao đổi về các nội dung cơ bản của Dự án Luật;
6. Giới thiệu dự thảo Luật trên Cổng thông tin của Bộ Tư pháp và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; tổ chức lấy ý kiến góp ý chính thức bằng văn bản của các Bộ, ngành, một số địa phương về Dự án Luật;
7. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật trên cơ sở ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để trình Quốc hội Dự án Luật này.
III. MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC
1. Việc xây dựng Luật này nhằm các mục đích chủ yếu sau đây:
a) Nhất thể hoá pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, khắc phục tình trạng tồn tại hai mặt bằng pháp lý về bồi thường thiệt hại trong hoạt động hành chính và tố tụng hình sự hiện nay;
b) Tạo cơ chế pháp lý mới, đồng bộ, hiệu quả để người bị thiệt hại thực hiện tốt hơn quyền được bồi thường của mình đối với những thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra; Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm của mình trước công dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
c) Xác định rõ trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại để một mặt, tạo thuận lợi cho người bị thiệt hại trong việc thực hiện quyền yêu cầu bồi thường của mình, mặt khác, góp phần tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, của công chức trong quá trình thực thi công vụ.
2. Luật Bồi thường nhà nước được xây dựng theo những quan điểm chỉ đạo sau đây:
a) Thể chế hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo đảm quyền công dân, quyền con người, trong đó có quyền được yêu cầu bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức nhà nước gây ra khi thi hành công vụ đã được quy định tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X;
b) Phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cần phải được quy định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tuy Hiến pháp năm 1992 và Bộ luật dân sự năm 2005 đã ghi nhận nguyên tắc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do cán bộ, công chức của mình gây ra cho tổ chức, cá nhân trong khi thi hành công vụ, nhưng trong điều kiện hiện nay, để đảm bảo tính khả thi của Luật này thì phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cần được xác định phù hợp với trình độ phát triển kinh tế – xã hội; khả năng của ngân sách nhà nước; năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước;
c) Bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại và lợi ích của Nhà nước. Luật Bồi thường nhà nước được ban hành là nhằm bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức bị người thi hành công vụ gây thiệt hại, đồng thời cũng phải bảo đảm sự hoạt động ổn định, có hiệu quả của các cơ quan công quyền, đặc biệt là giữ vững sự ổn định chính trị – xã hội của đất nước;
d) Kế thừa các quy định pháp luật còn phù hợp và từng bước pháp điển hoá các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong khi thi hành công vụ, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có thể vận dụng được phù hợp với điều kiện của nước ta.
IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT
1. Bố cục của Dự thảo
Dự thảo Luật Bồi thường nhà nước gồm 6 chương và 66 điều, cụ thể như sau:
Chương I: Những quy định chung
Chương này gồm 15 điều (Từ Điều 1 đến Điều 15), quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; chính sách bồi thường nhà nước; quyền yêu cầu bồi thường nhà nước; căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường nhà nước; nguyên tắc giải quyết bồi thường; cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước; quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước; nghĩa vụ của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại.
Chương II: Bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và thi hành án
Chương này gồm 03 mục, Mục 1 gồm 03 điều (Từ Điều 16 đến Điều 18) quy định về các trường hợp được bồi thường; Mục 2 gồm 05 điều (từ Điều 19 đến Điều 23) quy định về việc xác định thiệt hại được bồi thường; Mục 3 gồm 19 điều (từ Điều 24 đến Điều 42) quy định về thủ tục giải quyết bồi thường.
Chương III: Bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng
Chương này gồm 03 mục, Mục 1 gồm 03 điều (từ Điều 43 đến Điều 45) quy định về các trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố tụng; Mục 2 gồm 02 điều (Điều 46 và 47) quy định về việc xác định thiệt hại được bồi thường và phục hồi danh dự cho người bị oan trong hoạt động tố tụng hình sự; Mục 3 gồm 04 điều (từ Điều 48 đến Điều 51) quy định về thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động tố tụng.
Chương IV: Kinh phí bồi thường và thủ tục chi trả
Chương này gồm 04 Điều (Từ Điều 52 đến Điều 55), quy định về kinh phí bồi thường; lập dự toán, sử dụng và cấp phát kinh phí bồi thường; chi trả tiền bồi thường; quyết toán kinh phí bồi thường.
Chương V: Trách nhiệm hoàn trả
Chương này gồm 08 điều (Từ Điều 56 đến Điều 63) quy định về trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ; thẩm quyền quyết định việc hoàn trả; thực hiện việc hoàn trả, hiệu lực của quyết định hoàn trả; giải quyết tranh chấp về quyết định hoàn trả; thi hành quyết định hoàn trả và quản lý, sử dụng kinh phí hoàn trả.
Chương VI: Điều khoản thi hành
Chương này gồm ba điều (Từ Điều 64 đến Điều 66) quy định về việc không áp dụng án phí, lệ phí, không thu thuế đối với tiền bồi thường; hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành.
2. Một số nội dung cơ bản của dự thảo Luật Bồi thường nhà nước
a) Về phạm vi điều chỉnh
Dự thảo Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra cho cá nhân, tổ chức trong ba lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Nhà nước là: (1) quản lý hành chính nhà nước; (2) tố tụng và (3) thi hành án. Trong từng lĩnh vực, Dự thảo quy định cụ thể các trường hợp được áp dụng cơ chế bồi thường thiệt hại theo Luật này để giải quyết. Quy định này nhằm bảo đảm tính khả thi của Dự án Luật trên cơ sở quán triệt quan điểm là chính sách bồi thường nhà nước cần phải được xây dựng phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ. Như vậy, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động xây dựng pháp luật (lập pháp, lập quy) không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Bồi thường nhà nước.
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước còn tham gia vào nhiều quan hệ pháp luật khác như quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại. Bên cạnh đó, khi tham gia các quan hệ này, nếu các cơ quan nhà nước có hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm hợp đồng, gây ra thiệt hại cho các tổ chức, cá nhân thì các cơ quan nhà nước cũng có trách nhiệm bồi thường nhưng theo các quy định chung của pháp luật dân sự mà không theo quy định của Luật Bồi thường nhà nước. Ngoài ra, trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, chính trị, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích của nhân dân, các hoạt động của Nhà nước có thể gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân, như việc trưng mua, trưng dụng tài sản thì Nhà nước sẽ bồi thường thiệt hại cho các tổ chức cá nhân đó theo quy định của Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản.
b) Về đối tượng được bồi thường
Dự thảo Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, mà không phân biệt cá nhân, tổ chức là trong nước hay ngoài nước (Điều 2).
c) Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước
Với tư cách là một hình thức trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường nhà nước chỉ phát sinh khi hội đủ các căn cứ nhất định. Để có căn cứ đầy đủ, thống nhất cho việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, dự thảo Luật quy định 04 căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước, trong đó, ngoài các căn cứ chung mà Bộ luật dân sự đã quy định còn có một căn cứ đặc thù, đó là thiệt hại phải do công chức gây ra trong quá trình thi hành công vụ (Điều 7).
d) Về phạm vi các trường hợp Nhà nước phải bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án
Để đảm bảo tính khả thi, Luật Bồi thường nhà nước không chỉ xác định rõ phạm vi các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước phải bồi thường (quản lý hành chính nhà nước, thi hành án, tố tụng) mà còn phải xác định rõ phạm vi các trường hợp được Nhà nước bồi thường trong từng lĩnh vực hoạt động đó. Vấn đề này được Dự thảo giải quyết trên nguyên tắc là chỉ có hành vi trái pháp luật nào của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền sở hữu, các quyền cơ bản khác của cá nhân và các quyền của tổ chức mà mang tính phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân thì mới được Nhà nước bồi thường. Cụ thể, Dự thảo quy định giới hạn trách nhiệm bồi thường đối với các trường hợp thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thi hành án tại các điều 16, 17, 18 và 43.
đ) Về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự
Dự thảo Luật quy định phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự theo hướng không chỉ pháp điển hoá các quy định về bồi thường thiệt hại do oan trong Nghị quyết số 388 mà còn bổ sung một số trường hợp mới, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ trong tố tụng hình sự gây ra. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, phức tạp, nhạy cảm, do đó dự thảo Luật quy định theo hướng hạn chế, cụ thể là, Nhà nước chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra trong một số hoạt động nhất định là trong việc thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản (khoản 1 Điều 44).
e) Về cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước
Dự thảo xác định cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường nhà nước là cơ quan quản lý người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại (Điều 9). Để việc giải quyết bồi thường được tiến hành một cách thuận lợi, dự thảo Luật đã quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của cơ quan này, đồng thời, xác định rõ trách nhiệm phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nhất là của cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước.
Để khắc phục tình trạng người bị thiệt hại không thể thực hiện được việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do không xác định được cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường như trong một số trường hợp hiện nay, dự thảo Luật đã đưa ra quy định về thẩm quyền xác định cơ quan có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường nhà nước. Cụ thể, thẩm quyền xác định cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước đối với các thiệt hại trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước và thi hành án được giao cho cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước (Điều 11); thẩm quyền xác định cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước đối với các thiệt hại trong hoạt động tố tụng được giao cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 50).
g) Về cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước
Do hoạt động bồi thường nhà nước được xem là một nhiệm vụ mới của Nhà nước, nên dự thảo Luật có quy định về nội dung quản lý và cơ quan có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động này (Điều 10 và Điều 11). Việc quy định về cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động bồi thường nhà nước sẽ góp phần khắc phục được nhiều hạn chế, bất cập hiện nay, trong đó có hạn chế liên quan đến việc do không có cơ quan thực hiện trách nhiệm xây dựng, ban hành, phổ biến và tổ chức, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường nhà nước; theo dõi, kiểm tra việc giải quyết bồi thường thuộc trách nhiệm của nhà nước để báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời xử lý các khó khăn, vướng mắc về thể chế và tổ chức thực thi nên đã làm hạn chế hiệu lực và hiệu quả của các quy định của Hiến pháp và pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong thời gian qua.
h) Về nguyên tắc giải quyết bồi thường
Dự thảo Luật quy định về vấn đề này theo hướng áp dụng các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp luật dân sự, có bổ sung thêm một số quy định đặc thù, cụ thể là: thiệt hại về vật chất thực tế được bồi thường toàn bộ; thiệt hại do tổn thất về tinh thần chỉ được bồi thường đối với một số trường hợp nhất định, theo mức được Luật này quy định (Điều 8).
i) Về các thiệt hại được bồi thường
Để khắc phục tình trạng bất đồng ý kiến giữa người bị hại và cơ quan giải quyết bồi thường như hiện nay, dự thảo Luật quy định cụ thể các loại thiệt hại được bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm; thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong trường hợp bị xâm phạm quyền tự do thân thể hoặc tính mạng, sức khoẻ; thiệt hại về vật chất trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm và thiệt hại về vật chất trong trường hợp bị tổn hại về sức khoẻ.
k) Về thủ tục giải quyết bồi thường nhà nước
Dự thảo Luật quy định thủ tục giải quyết bồi thường được tiến hành theo các nguyên tắc chung của pháp luật tố tụng dân sự, trên cơ sở tôn trọng quyền tự do thoả thuận và tự do định đoạt của các bên, nhưng cũng có những đặc thù của chế định trách nhiệm bồi thường nhà nước như thủ tục giải quyết thông qua thương lượng tại cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước (các điều 31, 32, 33, 34 và 35).
l) Về kinh phí bồi thường
Dự thảo Luật quy định kinh phí bồi thường được sử dụng từ ngân sách nhà nước và có chia ra các cấp ngân sách cho hai trường hợp: (1) Kinh phí bồi thường cho những thiệt hại do người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước ở Trung ương gây ra được ngân sách trung ương bảo đảm; (2) Kinh phí bồi thường cho những thiệt hại do người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước ở địa phương gây ra do ngân sách tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương bảo đảm theo quy định của pháp luật về phân cấp ngân sách nhà nước.
m) Về trách nhiệm hoàn trả
Trách nhiệm hoàn trả là một vấn đề quan trọng, liên quan đến lợi ích của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại, do đó dự thảo Luật đã dành một chương để quy định về vấn đề này (Chương V). Về xác định mức hoàn trả, dự thảo Luật quy định người thi hành công vụ phải hoàn trả toàn bộ trong trường hợp có lỗi cố ý. Đối với các trường hợp khác, người thi hành công vụ chỉ phải hoàn trả một phần kinh phí mà Nhà nước đã bồi thường. Mức hoàn trả được xác định căn cứ vào các yếu tố: mức độ lỗi của người thi hành công vụ; mức độ nghiêm trọng của thiệt hại đã gây ra; khả năng kinh tế của người thi hành công vụ (Điều 58). Để bảo đảm ổn định tâm lý công tác của người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự, dự thảo Luật quy định đối với các trường hợp gây ra oan trong tố tụng hình sự, người thi hành công vụ không chịu trách nhiệm hoàn trả nếu họ có lỗi vô ý (khoản 2 Điều 56).
V. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XIN Ý KIẾN QUỐC HỘI
Phần lớn các ý kiến đều đồng ý với tên gọi, phạm vi điều chỉnh và các nội dung chính của Dự án Luật Bồi thường nhà nước, tuy vậy, vẫn còn một số ý kiến khác nhau cần xin ý kiến Quốc hội như sau:
1. Về tên gọi của Dự án Luật
Có một số ý kiến đề nghị nên thay tên gọi của Dự án Luật bằng tên gọi mới là Luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước hoặc Luật về việc Nhà nước bồi thường thiệt hại vì cách gọi như dự thảo Luật hiện nay – Luật Bồi thường nhà nước có thể làm cho người đọc hiểu nhầm rằng, đây là Luật về việc cá nhân, tổ chức bồi thường cho Nhà nước mà không phải là Luật về việc Nhà nước thực hiện trách nhiệm bồi thường cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước gây ra.
Chính phủ đề nghị giữ tên gọi là Luật bồi thường nhà nước vì tên gọi này ngắn gọn và phù hợp với tên gọi về Luật này của nhiều nước trên thế giới (Luật Bồi thường nhà nước của Trung Quốc, Luật Bồi thường nhà nước của Nhật Bản, Luật bồi thường nhà nước của Hàn Quốc). Hơn nữa, các vấn đề về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, trách nhiệm bồi thường nhà nước, quyền yêu cầu bồi thường nhà nước đã được quy định cụ thể, rõ ràng tại Chương I của dự thảo Luật. Do đó, việc sử dụng tên gọi là Luật bồi thường nhà nước sẽ không gây ra sự hiểu nhầm về bên có trách nhiệm bồi thường và đối tượng được bồi thường thiệt hại trên thực tế.
2. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước
a) Về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng hình sự gây ra
Về vấn đề này hiện còn hai loại ý kiến khác nhau.
Ý kiến thứ nhất cho rằng, dự thảo Luật cần quy định Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường không chỉ đối với thiệt hại do bị oan mà còn đối với thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng hình sự gây ra.
Ý kiến thứ hai cho rằng không nên mở rộng phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước cho các trường hợp thiệt hại do hành vi trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra vì những lý do sau đây:
Một là, việc mở rộng phạm vi bồi thường nên được thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ;
Hai là, tình hình tội phạm hiện đang diễn biến phức tạp, các điều kiện cho việc thực thi pháp luật và đấu tranh phòng chống tội phạm chưa được bảo đảm tốt, do đó, nếu đặt vấn đề phải bồi thường do có hành vi trái pháp luật trong tố tụng hình sự gây ra thì sẽ làm hạn chế hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Chính phủ thấy rằng, việc dự thảo Luật điều chỉnh trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với trường hợp thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra trong hoạt động tố tụng hình sự là hợp lý vì:
Thứ nhất, phù hợp với quan điểm của Đảng được thể hiện trong các văn kiện như: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21 tháng 3 năm 2000 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ Chính trị.
Thứ hai, việc mở rộng phạm vi bồi thường này cũng phù hợp với quy định của Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự, theo đó: “Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại”
Thứ ba, việc buộc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với các thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra sẽ góp phần chấn chỉnh, khắc phục những yếu kém, sai sót trong hoạt động tố tụng hình sự;
Thứ tư, quy định này góp phần phúc đáp được nguyện vọng chính đáng của người bị hại là mọi thiệt hại, bất luận là do bị oan hay bị sai do có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đều phải được Nhà nước bồi thường thoả đáng.
Chính vì vậy, Chính phủ nhất trí với ý kiến thứ nhất, tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, nên có giới hạn về phạm vi các trường hợp được Nhà nước bồi thường. Cụ thể là, so với phạm vi điều chỉnh của Nghị quyết số 388, dự thảo Luật chỉ quy định bổ sung trách nhiệm bồi thường nhà nước đối với các thiệt hại vật chất thực tế đã gây ra cho tổ chức, cá nhân có tài sản bị thu giữ, tạm giữ, kê biên do các hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ trong hoạt động tố tụng hình sự (khoản 1 Điều 44).
b) Về việc quy định trách nhiệm bồi thường của nhà nước đối với thiệt hại do người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật gây ra
Có một số ý kiến cho rằng, nên quy định trách nhiệm bồi thường nhà nước trong cả trường hợp người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật bởi vì, trên thực tế, thiệt hại gây ra đối với cá nhân, tổ chức không chỉ trong trường hợp người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật mà còn có thể trong cả trường hợp người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Quy định như vậy để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; góp phần khắc phục tính bị động, tệ quan liêu, vô trách nhiệm trong hoạt động công vụ.
Về vấn đề này, Chính phủ cho rằng, trong điều kiện hiện nay, dự thảo Luật chưa nên quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với thiệt hại do người thi hành công vụ không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật vì các lý do sau đây:
Hệ thống pháp luật hiện hành còn chồng chéo, nhiều quy định pháp luật không rõ ràng, do đó, trong hoạt động công vụ, các cơ quan nhà nước thường phải phối hợp với nhiều cơ quan khác nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Do cần phải có thời gian để giải quyết các vướng mắc, bất cập của pháp luật và phối hợp công tác giữa các cơ quan với nhau cho nên dẫn tới tình trạng khá phổ biến là các cơ quan nhà nước và người thi hành công vụ thường thực hiện nhiệm vụ, công vụ chậm so với thời hạn theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, hiện nay trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đa số công chức, nhất là ở cấp huyện và cấp xã còn hạn chế, điều kiện để thực thi công vụ còn nhiều bất cập, ý thức trách nhiệm, kỷ luật công vụ còn thấp, cho nên trên thực tế việc chậm trễ, quan liêu, thờ ơ trong các hoạt động công vụ là rất phổ biến. Vì vậy, nếu quy định Nhà nước phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với các thiệt hại gây ra do việc công chức không thực hiện hoặc thực hiện chậm nhiệm vụ, công vụ thuộc trách nhiệm của mình thì sẽ dẫn đến việc mở rộng thêm một cách đáng kể phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta và năng lực tài chính của Nhà nươc hiện nay.
3. Về thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước
Có hai loại ý kiến về việc xác định thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước.
Ý kiến thứ nhất đề nghị xác định thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước như sau: Trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ, người bị thiệt hại có quyền gửi đơn yêu cầu bồi thường nhà nước đến cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước.
Ý kiến thứ hai đề nghị thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước là 2 năm, kể từ ngày người bị thiệt hại biết hoặc buộc phải biết về việc có thiệt hại xảy ra.
Chính phủ đề nghị áp dụng theo ý kiến thứ nhất vì cho rằng, trách nhiệm bồi thường nhà nước có những đặc thù so với trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo quy định của pháp luật dân sự, trong đó có vấn đề về thời hiệu yêu cầu bồi thường. Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là căn cứ quan trọng để cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước thực hiện việc giải quyết bồi thường. Việc xác định thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước là 2 năm, kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ sẽ tạo điều kiện cho người bị thiệt hại bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình vì trong nhiều trường hợp, thời gian thực hiện việc xác định có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ là rất dài. Mặt khác, nếu quy định thời điểm để tính thời hiệu yêu cầu bồi thường nhà nước là khi có thiệt hại xảy ra thay vì thời điểm là khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thì sẽ gây sức ép rất lớn cho hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường nhà nước do điều kiện thực hiện quyền yêu cầu bồi thường nhà nước không bị ràng buộc bởi việc phải có văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ.
Trên đây là nội dung cơ bản của Dự án Luật Bồi thường nhà nước, Chính phủ kính trình Quốc hội xem xét, quyết định.
(Xin gửi kèm theo:
– Dự thảo Luật Bồi thường nhà nước;
– Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về Dự án Luật Bồi thường nhà nước;
– Báo cáo tổng hợp ý kiến góp ý của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị – xã hội;
– Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra trong khi thi hành công vụ;
– Báo cáo tổng hợp kinh nghiệm nước ngoài về pháp luật bồi thường nhà nước.)
TM. CHÍNH PHỦ
TUQ. THỦ TƯỚNG
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Hà Hùng Cường
(đã ký)
Like this:
Like Loading...
Related
Filed under: Trách nhiệm dân sự |
Leave a Reply