Site icon THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN CỦA AUSTRALIA VỀ HÒA GIẢI – MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ÁP DỤNG CHO VIỆT NAM

Advertisements

ĐẶNG HOÀNG OANH – VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ BỘ TƯ PHÁP

Hoà giải có vai trò quan trọng trong xã hội và trong nền tư pháp Australia.  Hoà giải là một quá trình có giá trị xã hội cao để điều chỉnh quan hệ giữa các bên có tranh chấp ngay cả khi các tranh chấp đó liên quan đến quyền và nghĩa vụ pháp lý. Hoà giải là phương pháp để tăng cường sự hoà hợp lẫn nhau chứ không làm tăng thêm sự căng thẳng, đối đầu giữa họ. Hoà giải làm tăng chất lượng công lý và trình độ văn hoá của những nền văn minh đã coi nó là một phương thức giải quyết các tranh chấp pháp lý.

I. Tóm tắt sơ bộ chế định hoà giải tại Australia:

Tại Australia, hoà giải được coi là một phương pháp, một quá trình không chính thức cho các bên lựa chọn để giải quyết tranh chấp, bên cạnh thiết chế chính thức của Nhà nước để giải quyết tranh chấp là Toà án. Nhà nước Australia có các biện pháp tích cực nhằm khuyến khích sử dụng biện pháp giải quyết tranh chấp bằng hoà giải: Australia công nhận về mặt pháp lý vị trí, vai trò của hoà giải trong giải quyết tranh chấp; Nhà nước thiết lập hoặc công nhận bằng pháp luật các thiết chế hoà giải; Nhà nước xác định phạm vi, tính chất các loại tranh chấp được hoặc không được giải quyết bằng hoà giải; Nhà nước ghi nhận hoặc quy định các nguyên tắc, thủ tục, quy trình hoà giải. Bằng cách tác động mang tính tổ chức và pháp lý, Nhà nước Australia đã khẳng định và nâng cao vai trò phòng ngừa và giải quyết tranh chấp của hoà giải, biến hoà giải thành một dịch vụ có tính chuyên nghiệp, có tổ chức, phổ biến để giải quyết tranh chấp, góp phần duy trì và tăng cường sự hiểu biết và thân thiện trong các quan hệ xã hội; giảm bớt gánh nặng xét xử của Toà án, qua đó góp phần nâng cao chất lượng công lý và quản lý hành chính tư pháp nói chung.

Bên cạnh hình thức hoà giải tại cộng đồng được công nhận và thực hiện khá thành công, thì tại Australia, hoà giải còn được phát triển khá mạnh mẽ với tính chất là một phương thức hoà giải chuyên nghiệp trong giải quyết các chấp kinh tế, thương mại. Hoà giải (ngoài Toà án) có nhiều ưu thế hơn thủ tục tố tụng tư pháp tại Toà  án. Khi giải quyết các tranh chấp thương mại, đặc biệt là các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng làm ăn dài hạn, điều mà các nhà kinh doanh và luật sư của họ quan tâm đến bên cạnh yêu cầu về công lý,  là việc gìn giữ các quan hệ kinh doanh vốn có, là việc đảm bảo bí mật kinh doanh, là tiết kiệm thời gian và chi phí…- những vấn đề mà tố tụng tư pháp khó có thể đáp ứng được do chính các nguyên tắc tố tụng quy định (tính công khai, quy trình tố tụng, việc kiểm tra chéo chứng cứ; nhân chứng v.v…). Do vậy, các nhà kinh doanh ở Australia  thường ưu tiên khai thác và sử dụng các phương pháp giải quyết tranh chấp ngoài toà án như hoà giải, thoả thuận, trọng tài. Mỗi phương pháp khi được sử dụng độc lập đều có những ưu và nhược điểm riêng, nhưng khi được sử dụng thay thế hay kết hợp với những phương pháp khác theo một trình tự hợp lý (kết hợp thương lượng và hoà giải (hai phương pháp lựa chọn không bắt buộc) với trọng tài (phương pháp lựa chọn bắt buộc))  thì có thể sẽ tăng cường được các ưu điểm và hạn chế được các nhược điểm. Tại Australia, hoà giải được áp dụng như một phương pháp lựa chọn linh hoạt, đa dạng: hoà giải độc lập các tranh chấp kinh tế (thông qua thiết chế độc lập về hoà giải), hoà giải trong tố tụng trọng tài và hoà giải trong tố tụng tư pháp (cả dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, hành chính và phần nào đó cả trong hình sự).

Các nguyên tắc của hoà giải được áp dụng và tuân thủ nghiêm ngặt tại Australia, không chỉ với hình thức hoà giải tại cộng đồng, mà cả với hoà giải trong kinh doanh, thương mại. Các nguyên tắc được thừa nhận chung của hoà giải – một quá trình về bản chất là tự nguyện, riêng tư, không chính  thức – là: 1) Hoà giải phải dựa trên tự do ý chí của các bên tranh chấp; 2) Hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc khách quan, công bằng, hợp lý; 3) Hoà giải sẽ lập tức chấm dứt nếu hai bên không đạt được thoả thuận hoặc nếu một trong hai bên không muốn tiếp tục hoà giải; 4) Bảo toàn bí mật những tài liệu, chứng cứ, ý kiến của các bên và của hoà giải viên trong quá trình hoà giải: Do tính chất riêng tư, tự nguyện của hoà giải, để tránh cho các bên khỏi e ngại trong việc đưa ra các tài liệu,  chứng cứ cần thiết cho quá trình hoà giải cũng như trong việc đề xuất, thảo luận những ý kiến, đề xuất giải quyết,  Quy tắc hoà giải của Australia, tương tự như luật hay quy tắc hoà giải của nhiều nước và Trung tâm trọng tài/ hoà giải quốc tế, quy định rằng các chứng cứ, tài liệu và ý kiến của các bên trong quá trình hoà giải sẽ không bị sử dụng như chứng cứ bất lợi cho họ trong bất cứ quá trình tố tụng nào tiếp theo nếu hoà giải không thành. Tại Australia, đang có một số tranh cãi cho rằng một hoà giải viên sẽ không được lựa chọn làm trọng tài viên hoặc thẩm phán cho cùng vụ việc để đảm bảo bí mật của hoà giải và sự khách quan  của trọng tài viên hay thẩm phán.

II. Một số kiến nghị về việc tham khảo kinh nghiệm của Australia nhằm hoàn thiện chế định hoà giải tại Việt Nam

1.   Tham khảo pháp luật của Australia về hoà giải, nâng cấp, pháp điển hoá các quy định của Pháp lệnh hoà giải và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam về hoà giải ở cơ sở để xúc tiến xây dựng Luật hoà giải ở cơ sở,điều chỉnh một cách tổng thể về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở (Phạm vi hoà giải, Nguyên tắc hoà giải ở cơ sở, các mô hình tổ chức hoà giải và hoà giải viên; tiêu chuẩn đối với hoà giải viên, quyền và nghĩa vụ của hoà giải viên; thủ tục, trình tự của hoạt động hoà giải, phương thức/ kỹ năng hoà giải, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong công tác hoà giải ở cơ sở; Quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở v.v…). Trong quá trình xây dựng  Luật hoà giải, cần chú trọng tham khảo kinh nghiệm hữu ích của Australia về mô hình hoà giải mang tính trung gian, hỗ trợ (facilitative mediation), việc  kiến tạo các mô hình trung gian hoà giải phù hợp với yếu tố văn hoá, các phương pháp giám sát, đánh giá và bồi dưỡng thường xuyên cho cán  bộ trung gian hoà giải v.v…

2. Bên cạnh chế định hoà giải tại cơ sở (hoà giải cộng đồng/ truyền thống), cần nghiên cứu đề xuất việc công nhận về mặt pháp lý chế định hoà giải thương mại (hoà giải trong kinh doanh), cụ thể là việc đề xuất xây dựng Luật hoà giải thương mại. Có hai cách giải quyết:một là  mở rộng phạm vi điều chỉnh Luật hoà giải ở cơ sở mà Bộ Tư pháp đang được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo, bằng cách bổ sung chế định hoà giải thương mại (bên cạnh chế định hoà giải cộng đồng), và tương ứng với việc mở rộng phạm vi đó, thay tên của văn bản này thành “Luật hoà giải” (chứ không phải Luật hoà giải ở cơ sở như hiện nay); hai là xây dựng riêng một Luật hoà giải thương mại, tồn tại song song bên cạnh Luật hoà giải ở cơ sở;

3. Nghiên cứu đề xuất việc thành lập một cơ quan quốc gia thực hiện chức năng tham mưu cho Chính phủ và các toà án cũng như các cơ quan tài phán về các vấn đề giải quyết tranh chấp ngoài Toà án (ADR)  nói chung và hoà giải nói riêng,nhằm xây dựng và duy trì một hệ thống ADR thống nhất, có chất lượng cao và dễ tiếp cận. Thiết chế này có thể lấy tên là  Hội đồng Cố vấn về Phương thức Giải quyết Tranh chấp ngoài Toà án của Việt Nam, có chức năng tương tự như NADRAC của Australia – là một điển hình về cơ quan tham mưu ADR cho Chính phủ́. Hỗ trợ thiết chế này có thể là một Ban thư ký đặt tại Bộ Tư pháp.Thành viên của cơ quan này là những học giả, nhà hoạch định chính sách và pháp luật nổi tiếng trong lĩnh vực ADR. Cơ quan này có chức năng xuất bản các ấn phẩm tiện dụng và cung cấp nguồn lực cho việc xây dựng pháp luật và các chương trình ADR;  xác lập tiêu chuẩn quốc gia về công nhận hoà giải viên thông qua sự tham vấn của người dân; hướng dẫn, áp dụng việc thực thi các tiêu chuẩn này v.v…;

4. Nghiên cứu việc thành lập và công nhận về mặt pháp lý các thiết chế hoà giải (thiết chế về hoà giải tại cơ sở/ cộng đồng và thiết chế về hoà giải thương mại) với những điều lệ, quy tắc hoạt động chuyên nghiệp. Nên đề cao và chú trọng vai trò đặc thù của công tác hoà giải các tranh chấp gia đình, trong đó có việc thành lập các trung tâm hỗ trợ gia đình tương tự như của Australia, có chức năng (được công nhận bằng pháp luật) hoà giải các tranh chấp gia đình. Các hoà giải viên về tranh chấp hôn nhân gia đình cần có những kiến thức tâm lý, xã hội cao, những kỹ năng đặc thù để giải quyết các tranh chấp gia đình v.v..; tham khảo cách thức Bộ Tư pháp Liên bang Australia quản lý và giám sát hoạt động các trung tâm hỗ trợ quan hệ gia  đình;  tăng cường hiểu biết về các chiến lược hiệu quả trong công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hoà giải.

5. Nghiên cứu việc thành lập các thiết chế tư pháp tại cơ sở, tương tự như Trung tâm tư pháp cộng đồng của Australia, nhằm mục đích tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào hệ thống tư pháp.Việc thành lập một tòa án đặt tại Trung tâm nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ tại chỗ cho các nạn nhân, nhân chứng, bị đơn và người dân tại cơ sở; các chương trình hòa giải và ngăn ngừa tội phạm cho địa hạt tại cộng đồng; các cơ sở hội họp cho cộng đồng… đã chứng tỏ tính thiết thực và hiệu quả đặc biệt.  Thiết chế kiểu Trung tâm tư pháp cộng đồng cần phối hợp rất chặt chẽ với chính quyền địa phương để giải quyết các nguyên nhân cơ bản của việc phạm tội; tạo điều kiện, giáo dục và hỗ trợ người dân trong vùng; hỗ trợ ngăn ngừa tội phạm; chấm dứt tình trạng “quay vòng” của tội phạm và trừng phạt; tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào việc quản lý tư pháp; tăng cường cơ hội tiếp cận công lý…

6. Xây dựng các bộ quy tắc ứng xử cho hoà giải viên; xác lập tiêu chuẩn quốc gia về công nhận hòa giải viên thông qua sự tham vấn của người dân, hướng dẫn và  giám sát  việc áp dụng, thực thi các tiêu chuẩn này v.v…;

7. Lập kế hoạch xây dựng các chính sách, pháp về tư pháp phục hồi đối với người vi phạm pháp luật, đặc biệt là với đối tượng chưa thành niên vi phạm pháp luật, từng bước đưa cách tiệp cận mới này vào thực hiện tại Việt Nam:

Khái niệm tư pháp phục hồi còn hoàn toàn mới đối với hệ thống tư pháp Việt Nam.  Tại Australia cũng như ở nhiều nước khác, tư pháp phục hồi  là một cách tiếp cận hết sức tiến bộ, nhất là đối với người chưa thành niên. Nó khác hẳn với hệ thống tư pháp trưyền thống của chúng ta từ xưa đến nay ở chỗ tạo điều kiện tối đa cho cộng đồng có thể tham gia và hỗ trợ vào quá trình phục hồi của người vi phạm pháp luật, đặc biệt là người chưa thành niên, giúp họ hiểu rõ được hành vi vi phạm pháp luật của mình, thông qua đó có thể giải quyết được triệt để yếu tố nguy cơ của việc phạm tội và tác động một cách sâu sắc, mạnh mẽ đến ý thức của người phạm tội để họ có thể thay đổi thực sự và lâu dài. Đặc biệt, cần chú trọng cải thiện biện pháp hoà giải và mở rộng khả năng áp dụng biện pháp này trong xử lý hành vi vi phạm của người phạm tội: nghiên cứu các mô hình hoà giải, cách thức tổ chức các hội nghị hoà giải của Australia và các nước để tìm ra mô hình phù hợp với Việt Nam;

8. Tham khảo các chiến lươc hiệu quả của Australia trong công tác đào tạo hoà giải viên, tuyên truyền và phổ biến pháp luật về hòa giải. Cần đổi mới nội dung chương trình, phương pháp, hình thức đào tạo, bồi dưỡng theo phương châm gắn lý thuyết với thực tiễn, kết hợp trang bị kiến thức nghiệp vụ, kỹ năng thực hành, kiến thức pháp luật với việc nâng cao quy tắc đạo đức của hoà giải viên.

9. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, trên tinh thần triển khai những nội dung đã thảo luận và thống nhất tại các cuộc làm việc với các cơ quan của Australia, dưới nhiều hình thức như trao đổi chuyên gia, cung cấp tài liệu sách báo, cập nhật và thông tin thường xuyên tiến độ các hoạt động cải cách pháp luật và tư pháp nói chung và trong lĩnh vực hoà giải ở cơ sở nói riêng mà các nước đang tiến hành, nhằm mục đích tham khảo, học hỏi lẫn nhau. Dự kiến trong quá trình soạn thảo Luật hoà giải ở cơ sở sắp tới,  các chuyên gia về hoà giải của Australia sẽ sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam trong việc cung cấp thêm kinh nghiệm của Australia và của quốc tế về hoà giải. Được biết,  nhiều thiết chế về hoà giải của Australia cũng đã thiết lập và đang thực hiện các chương trình, dự án hợp tác với các cơ quan có liên quan của Việt Nam (Ví dụ như Hiệp hội luật sư của bang NSW đã ký kết Thoả thuận hợp tác với Hội Luật gia Việt Nam năm 1995 v.v…). Mọi cơ quan đoàn đã gặp đều rất mong muốn được thiết lập và mở rộng hợp tác trong lĩnh vực pháp luật với ta, trong đó có LEADR (Hiệp hội các nhà giải quyết tranh chấp). Đề xuất của  tác  giả là, trước mắt, ta nên nghiên cứu việc thiết lập quan hệ hợp tác với LEADR – một tổ chức phi lợi nhuận liên lục địa Úc-Á, có văn phòng tại Australia, New Zealand, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan và Nhật Bản. Tổ chức này có chức năng đảm bảo các dịch vụ giải quyết tranh chấp bằng ADR có chất lượng cao trong khu vực thông qua các hoạt động đào tạo và công nhận hoà giải viên và trọng tài; thúc đẩy đào tạo và nghiên cứu về ADR; cấp nhật các thông tin về ADR trong nước và quốc tế cho các thành viên; cung cấp các dịch vụ đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục cho các hoà giải viên chuyên nghiệp; tạo điều kiện tiếp cận đơn giản và có hiệu quả với các hoà giải viên chuyên nghiệp; hỗ trợ các tổ chức trong việc phát triển các quy trình giải quyết tranh chấp bằng ADR có hiệu quả.

10.Tiến hành tập hợp, khai thác các tài liệu Đoàn đã mang về sau chuyến công tác,nhân bản gửi cho Trung tâm Thông tin của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý để chia sẻ cho các đơn vị chức năng khai thác tiếp. Triển khai việc nghiên cứu, dịch các tài liệu cần thiết để làm tài liệu tham khảo, sử dụng chung cho các cơ quan, đơn vị có liên quan, trong đó có Ban soạn thảo và Tổ biên tập Luật hoà giải ở cơ sở; Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật (về hoà giải, thông tin pháp luật), Vụ Bổ trợ tư pháp (các cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài Toà án nói chung, trong đó đặc biệt là hoà giải thương mại),  Vụ pháp luật Hình sự – Hành chính (pháp luật và kinh nghiệm về xử lý chuyển hướng và tư pháp phục hồi với người phạm tội); Viện Khoa học pháp lý (trung tâm pháp luật quốc tế và PL so sánh); Đại học Luật Hà Nội (tài liệu tham khảo dùng cho giáo viên sinh viên về tố tụng dân sự, bổ trợ tư pháp, pháp luật dân sự so sánh v.v…) .

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Trích dẫn từ:

http://www.moj.gov.vn/p/tag.idempotent.render.userLayoutRootNode.target.n409.uP?uP_root=me&cmd=item&ID=9975

Exit mobile version