admin@phapluatdansu.edu.vn

LÝ LẼ NÀO PHÁN XÉT QUAN TÒA?

TS. NGUYỄN NGỌC ĐIỆN – Khoa Luật – Đại học Cần Thơ

TBKTSG – Dự thảo Luật Bồi thường nhà nước, vừa được công bố để lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp xã hội, có ghi nhận khả năng yêu cầu bồi thường trong trường hợp bị thiệt hại do thẩm phán cố ý ra bản án trái với những tình tiết khách quan của vụ án.

Khả năng này hình thành trong điều kiện có một điều khoản trong Bộ luật Hình sự mà bất kỳ người nào làm công việc xét xử cũng phải dè chừng. Đó là điều 295, nói về tội ra bản án trái pháp luật: “Thẩm phán, hội thẩm nào ra bản án mà mình biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù…”.

Thoáng đọc, người ta dễ có cảm giác tư tưởng làm nền tảng cho điều luật rất tròn trịa, có căn cứ vững chắc và hợp lý, hợp lẽ phải: là người cầm cân nảy mực và bảo vệ công lý, biết mình đang làm trái luật mà vẫn làm thì rất đáng bị trừng phạt, thậm chí cần phạt nặng để nêu gương. Tuy nhiên, vấn đề, mà thực ra chưa có ai giải quyết thấu đáo, là các tiêu chí của hành vi “ra bản án trái pháp luật” được xác định như thế nào? Thế nào là “biết mình xử sai mà vẫn xử”?  

Hiện diện trong xã hội có tổ chức, thẩm phán hay quan tòa được hiểu là người đại diện cho quyền lực công, dùng pháp luật và công lực để dập tắt các vụ xung đột giữa các thành viên, nói chung là các cuộc khủng hoảng trong quan hệ xã hội giữa người và người như tranh chấp tài sản, ly hôn, xâm phạm thân thể, của cải hoặc phẩm giá, danh dự của người khác…   

Áp dụng pháp luật, về phần mình, là một công việc tế nhị. Nó xuất phát từ cách hiểu của người áp dụng về ý nghĩa của quy tắc pháp lý. Là con người tự do, bất kỳ thành viên nào của xã hội đều có quyền tiếp cận các quy tắc của luật và có quyền giải thích nội dung của các quy tắc ấy theo ý mình.

Không ai bị buộc phải hiểu, nhìn nhận chuẩn mực qua lăng kính của ai khác, dù đó có là người đại diện cho nhà chức trách, là cấp trên trong quan hệ công tác. Ai cho rằng một người nào đó đã hiểu sai luật rồi hành động theo cách hiểu đó mà gây thiệt hại cho mình, thì cứ đưa vấn đề ra trước một người thứ ba, trung lập, khách quan, tức là quan tòa hoặc trọng tài, nhận ủy thác quyền lực công để phân xử.   

Bản thân người có quyền phân xử cũng tiếp cận và tìm hiểu luật như mọi người, nghĩa là một cách hoàn toàn độc lập. Bởi vậy, không loại trừ khả năng có sự khác biệt giữa các quan tòa hoặc trọng tài về cách hiểu luật, dẫn đến việc ra bản án, phán quyết không giống nhau. Do đặc điểm của tổ chức tòa án và của thủ tục tố tụng, mà trong trường hợp không đồng ý với cách hiểu và áp dụng pháp luật của thẩm phán cấp dưới, thẩm phán cấp trên có quyền nói rằng thẩm phán cấp dưới đã xử sai. Thế nhưng, đó tuyệt đối không phải là sự phán xét, không phải là tiêu chí để đánh giá sự tuân thủ pháp luật của thẩm phán cấp dưới. 

Giả sử bản án của tòa cấp dưới bị tòa cấp trên hủy, sau đó, khi xử lại, tòa cấp dưới vẫn giữ nguyên phán quyết cũ, thì cũng không thể nói rằng thẩm phán cấp dưới đã làm trái luật. Đơn giản vì cấp dưới và cấp trên không gặp nhau trong quá trình phân tích luật. Ở các nước tiên tiến, nếu bản án của tòa cấp dưới bị hủy thì việc xét xử lại sẽ được giao cho một tòa cùng cấp ở một quản hạt tư pháp khác. Trong không ít trường hợp, tòa cấp dưới ở nơi khác lại cũng xử giống hệt như tòa cấp dưới có bản án đã bị hủy; thế rồi, đến lúc nào đó, trước sự kiên định quan điểm của các tòa cấp dưới, tòa cấp trên buộc phải từ bỏ quan điểm của mình.                 

Có trường hợp thẩm phán bị mua chuộc và phân xử theo đúng ý muốn của một bên nào đó; khi ấy, thẩm phán chỉ phạm tội nhận hối lộ. Nếu ra lệnh tiêu hủy chứng cứ để có thể xét xử theo hướng bất lợi cho một bên nào đó, thẩm phán chỉ chịu trách nhiệm đối với việc thủ tiêu chứng cứ, vật chứng… Thiệt hại gây ra trong những tình huống ấy, nếu có, được bồi thường theo luật chung về trách nhiệm dân sự.      

Suy cho cùng, trong một xã hội được tổ chức tốt và thượng tôn pháp luật, không thể xây dựng được căn cứ khoa học, đạo đức cho việc đánh giá chất lượng pháp lý của hoạt động xét xử. “Quan tòa xử trái pháp luật” là một khái niệm vô nghĩa; đúng hơn, đó là khái niệm đặc thù của xã hội hành chính hóa, trong đó thẩm phán ứng xử về mặt nghề nghiệp, không phải theo pháp luật một cách độc lập, mà trong sự ràng buộc của mối quan hệ thượng cấp – thuộc quyền.

Nếu có ai là người có quyền phán xét thẩm phán, thì ai là người sẽ phán xét người đó? Để trả lời câu hỏi này, người ta phải đi mãi, theo vòng xoáy của cơ chế thượng cấp – thuộc quyền, đến vô cùng. Người chỉ huy cao nhất trở thành một thiết chế không thể định hình, có quyền ra lệnh từ trong bóng tối, nhưng không bao giờ phải chịu trách nhiệm về hậu quả của những mệnh lệnh ban ra.

SOURCE: THỜI BÁO KINH TẾ SÀI GÒN

Trích dẫn từ: http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/phapluat/8618/

2 Responses

  1. 12 Angry Men film.

  2. Tòa án có độc lập khi thẩm phán xét xử sai không?

    Nguyên tắc độc lập của toà án là nguyên tắc quan trọng trong các nguyên tắc điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của toà án. Chính hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật của thẩm phán nhằm mục đích bảo đảm quyền con người, quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật. Vì nhiều lý do khác nhau mà nguyên tắc này chưa được thực hiện triệt để ở Việt Nam. Hiện nay có nhiều quan điểm cho rằng, nếu xem xét trách nhiệm của thẩm phán thì nguyên tắc này không được đảm bảo, thậm chí còn mất đi tính độc lập. Tác giả bài viết này cho rằng, vì pháp luật của chúng ta còn thiếu hụt, mâu thuẫn, có lỗ hổng, phải hoàn thiện nên thẩm phán có thể xử kiểu gì cũng được. Để khắc phục tình trạng này người thẩm phán phải chịu trách nhiệm trong các phán quyết và có lương tâm khi xét xử.
    Hoạt động xét xử là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết của thẩm phán liên quan trực tiếp sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân. Nó còn ảnh hưởng tới những lợi ích của nhà nước, của các tổ chức và những giá trị được thừa nhận chung trong xã hội. Do đó, nảy sinh nhu cầu hoạt động xét xử cần phải đảm bảo tính cẩn trọng, kỹ lưỡng, tỷ mỷ. Đây chính là cơ sở của việc thẩm phán phải chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Khi thẩm phán phải chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì những phán quyết của thẩm phán sẽ cẩn trọng hơn, kỹ lưỡng hơn. Từ đó, việc xét xử sẽ đúng người, đúng tội đảm bảo công lý, bất bình đẳng không xảy ra.
    Xét xử với tinh thần trách nhiệm mới lấp đi được những toan tính, những định kiến mang tính cá nhân của thẩm phán. Hoạt động xét xử là hoạt động đặc biệt, hoàn toàn dựa trên hoạt động tư duy của thẩm phán. Là con người, thẩm phán cũng mang trong mình những xúc cảm như tức giận, bực bội, khó chịu với ai đó. Điều đó có thể xảy ra trên “công đường”, chủ tọa phiên tòa khó chịu với các đương sự chưa biết cách ăn nói tại tòa và cả những vị luật sư tranh tụng thẳng thắn thiếu ý tứ trước tòa. Nhưng khi xử lý công việc với cương vị là thẩm phán, được xác định là người cầm cán cân công lý, chủ tọa phiên tòa không được phép mang những cảm xúc con người vào phán quyết của mình. Điều này thật khó. Nhưng với ý thức sẽ có trách nhiệm thẩm phán sẽ lựa chọn được những quyết định không sai lầm của mình. Và việc công lý được tôn trọng, quyền con người không bị xâm phạm, lợi ích của công dân được đảm bảo là điều dễ nhận thấy.
    Ngược lại, nếu không xem xét trách nhiệm của thẩm phán tức là thẩm phán không phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng với những gì pháp luật quy định. Nó sẽ không công bằng khi những hành vi vi phạm pháp luật của công dân bị phán xét còn những hành vi sai của chính người tái phán không bị xem xét. Thẩm phán cũng là một công dân, cũng là một chủ thể tồn tại trong xã hội có nhà nước. Điểm khác duy nhất nhận thấy là thẩm phán được uỷ quyền nhân danh công lý (hay pháp luật) đưa ra những quyết định cuối cùng công trong một vụ án. Hiển nhiên thẩm phán không phải là công lý, ông ta chỉ được quyền nhân danh công lý khi công nhận giải pháp giải quyết các tranh chấp tại toà. Vì vậy, nghĩa vụ và trách nhiệm của thẩm phán là định hướng các bên thảo luận, tranh luận, nhằm tìm ra giải pháp hợp lý nhất để tiếp cận gần nhất với công lý. Việc mắc sai lầm và phải chịu trách nhiệm là một điều tất yếu. Thẩm phán không bi xem xét trách nhiệm về những hành vi trên “công đường” có chăng đã đi ngược lại với điều này.
    Một khi xem xét trách nhiệm của thẩm phán thì nguyên tắc độc lập trong xét xử có được đảm bảo không? Theo tôi không hề vi phạm nguyên tắc này. Độc lập tức là thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, thẩm phán tự mình giải quyết vụ án không phụ thuộc vào ai, không bị chi phối bởi ý kiến của ai. Không một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân nào can thiệp trái pháp luật vào hoạt động xét xử của thẩm phán. Độc lập là dựa trên căn cứ pháp luật để xem xét. Nguyên tắc độc lập xác định trách nhiệm của thẩm phán trong các hoạt động của mình mang tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không bị tác động can thiệp từ bên ngoài. Ở đây thẩm phán không những độc lập với sự can thiệp của lập pháp, hành pháp mà còn độc lập với chính sự can thiệp của cá nhân hay tổ chức trong nội bộ cơ quan tư pháp.
    Như vậy, sự độc lập chỉ có ý nghĩa khi thẩm phán tuân theo pháp luật, làm theo những gì pháp luật cho phép và trách nhiệm chỉ đặt ra khi làm trái với các quy định của pháp luật. Độc lập mà dẫn đến xâm phạm đến quyền lợi của người dân và làm giảm uy tín của nhà nước, của ngành toà án thì nguyên tắc độc lập của toà án không có ý nghĩa. Điều đó chứng tỏ để đảm bảo độc lập của toà án, cần tăng trách nhiệm của thẩm phán. Một khi trách nhiệm của các thẩm phán được tăng cường, các thẩm phán phải chịu trách nhiệm về phán quyết của mình thì sự độc lập trong việc ra phán quyết của thẩm phán sẽ được đảm bảo hơn.

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn

Discover more from THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Subscribe now to keep reading and get access to the full archive.

Continue reading