THS. NGUYỄN NHƯ QUỲNH – Khoa Luật dân sự – Trường Đại học Luật Hà Nội
I. Quy định pháp luật hiện hành về thực thi quyền tác giả
1. Các công ước quốc tế về thực thi quyền tác giả
Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) cũng như tổ chức thương mại thế giới (WTO) đều khẳng định rằng: khai thác quyền sở hữu trí tuệ là công cụ quan trọng trong việc tạo ra của cải và giảm đói nghèo. Các tổ chức này cũng kết luận: có luật sở hữu trí tuệ chưa đủ, điều quan trọng là luật sở hữu trí tuệ được thực thi như thế nào. Giá trị của các tài sản trí tuệ phụ thuộc đáng kể vào việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ; có được hệ thống thực thi quyền sở hữu trí tuệ hiệu quả là cách tốt nhất để hạn chế những hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ và đảm bảo rằng người có quyền cũng như toàn xã hội có thể được hưởng lợi từ những tài sản trí tuệ[1].
Trong nỗ lực nhằm bảo hộ và thực thi hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, nhiều công ước quốc tế về quyền tác giả đã ra đời[2]. Tuy nhiên, không phải trong mọi công ước quốc tế về quyền tác giả, các quốc gia thành viên đều đề cập đến vấn đề thực thi quyền này. Vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định chủ yếu trong Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật kí kết tại Berne, Thuỵ Sĩ năm 1886, được bổ sung lần cuối cùng tại Paris năm 1979; và Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tụê (viết tắt là Hiệp định TRIPs), được kí kết ngày 15/4/1994 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1995[3].
Công ước Berne là công ước đầu tiên và là công ước nền tảng về quyền tác giả. Trong công ước Berne, vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định tại các điều 13(3), 15, 16 và 17. Theo quy định tại Điều 15, tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật “được khởi kiện những người vi phạm tác phẩm của mình trước Toà án ở các nước thành viên Liên hiệp” (khoản 1). Để được Toà án bảo vệ, tác giả “chỉ cần có tên mình ghi trên tác phẩm theo như thông lệ”. Đối với những tác phẩm chưa xuất bản mà chưa biết ai là tác giả, nhưng có đủ cơ sở để cho rằng tác giả là công dân một nước thành viên Liên hiệp, thì luật pháp quốc gia thành viên Liên hiệp có khả năng chỉ định một cơ quan có thẩm quyền đại diện cho tác giả và có thẩm quyền bảo hộ và thực thi các quyền của tác giả đó trong các nước thành viên Liên hiệp (điểm a, khoản 4, Điều 15). Điều 16 và Điều 17 quy định các biện pháp cụ thể có thể được áp dụng trong qúa trình thực thi quyền tác giả. Cụ thể là: Mọi tác phẩm phi pháp có thể bị tịch thu ở những quốc gia là thành viên Liên hiệp, nơi tác phẩm nguyên tác được hưởng sự bảo hộ của luật pháp. Việc tịch thu được xử lý theo luật pháp của mỗi quốc gia (khoản 1, khoản 3, Điều 16). Công ước Berne cũng cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp kiểm soát, biện pháp cấm khác để xử lý hành vi vi phạm quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật (Điều 17).
Như vậy, trong Công ước Berne vấn đề thực thi mới chỉ dừng lại ở mức độ thừa nhận quyền của tác giả tác phẩm văn học, nghệ thuật được bảo vệ khi có hành vi vi phạm. Vấn đề thực thi quyền tác giả chưa được quy định trong một phần riêng, chưa được quy định cụ thể và chi tiết, các biện pháp thực thi còn quy định sơ sài. Các thủ tục bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng chưa được quy định trong công ước này.
Hiệp định TRIPs là văn bản “xương sống” của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Hiệp định TRIPs bao gồm những nguyên tắc toàn diện nhất về thực thi quyền quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn thế giới[4]. So với Công ước Berne cũng như nhiều công ước quốc tế khác về quyền sở hữu trí tuệ , Hiệp định TRIPs thể hiện bước phát triển rất rõ ràng. Hiệp định dành phần III với 21 điều (từ Điều 41 đến Điều 61) quy định về thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Hiệp định quy định nhiều biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Các quy định này được xây dựng trên nguyên tắc tối thiểu và dành quyền quy định cụ thể cho các quốc gia thành viên. Cùng với các quy định linh hoạt nhưng cụ thể và cơ chế đảm bảo thực thi, Hiệp định TRIPs thực sự là công cụ hữu hiệu trong việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu. Theo quy định của Hiệp định, để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ, quốc gia thành viên có thể áp dụng ba loại thủ tục là dân sự, hành chính và hình sự. Các biện pháp cụ thể mà các quốc gia thành viên được áp dụng bao gồm: biện pháp khẩn cấp tạm thời, bồi thường thiệt hại, tiêu huỷ tang vật và kiểm soát hàng giả tại biên giới. Tuy nhiên, các thủ tục đó phải được áp dụng bình đẳng, công bằng, không được phức tạp, tốn kém, tránh tạo ra hàng rào cản trở hoạt động thương mại hợp pháp và chống lại sự lạm dụng các thủ tục đó (khoản 1, khoản 2, Điều 41).
Thủ tục dân sự được áp dụng bởi các cơ quan tư pháp. Khi thực hiện thủ tục này, cơ quan tư pháp có quyền bắt buộc người vi phạm phải trả cho người bị thiệt hại một khoản bồi thường thích đáng để bù lại thiệt hại mà người đó phải gánh chịu vì có hành vi xâm phạm khi người đó biết hoặc có cơ sở để biết hành vi xâm phạm (Điều 45). Các cơ quan xét xử cũng có quyền đưa ra những biện pháp tạm thời để ngăn chặn việc xảy ra hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và đặc biệt nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hoá vào các kênh thương mại, kể cả hàng hoá nhập khẩu sau khi hoàn thành thủ tục hải quan; và để đảm bảo tính khách quan của chứng cứ (Điều 50). Theo Hiệp định TRIPs, các cơ quan hành pháp cũng có quyền áp dụng biện pháp tạm thời khi xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục hành chính (khoản 8, Điều 50). Thủ tụng tố tụng hình sự được áp dụng cho những trường hợp vi phạm quyền sở hữu trí tuệ với lỗi cố ý và với quy mô thương mại. Các biện pháp chế tài có thể được áp dụng bao gồm: tù giam, phạt tiền, tịch thu, tiêu huỷ các hàng hoá, nguyên liệu, phương tiện vi phạm (Điều 61).
2. Pháp luật Việt Nam về thực thi quyền tác giả
Nội dung cơ bản của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thực thi quyền tác giả
Cũng như Hiệp định TRIPs, pháp luật hiện hành của nước ta quy định ba loại phương thức được áp dụng để thực thi quyền tác giả. Cụ thể là phương thức dân sự, phương thức hành chính và phương thức hình sự.
Phương thức dân sự
Bộ luật dân sự năm 1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành về quyền tác giả trong Bộ luật[5] quy định: tác giả, chủ sở hữu tác phẩm được quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại; tranh chấp về quyền tác giả được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự[6]. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 cũng quy định: tranh chấp về quyền sở hữu trí tụê, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án (khoản 40-Điều 25, khoản 2-Điều 29).
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Toà án có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về quyền tác giả sau đây: 1.Tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức nhằm xác định tác giả, đồng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm; 2.Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả không phải là chủ sở hữu tác phẩm và chủ sở hữu tác phẩm về các quyền nhân thân, quyền tài sản của các chủ thể này; 3.Tranh chấp về thừa kế quyền tác giả; 4.Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng sử dụng tác phẩm; 5.Tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dịch vụ bản quyền tác giả; 6.Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm gốc với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm phái sinh (tác phẩm dịch, phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú giải, tuyển chọn); 7.Tranh chấp giữa tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với những người có quyền kề cận (quyền liên quan đến quyền tác giả) là người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng; 8.Tranh chấp giữa những tổ chức, cá nhân có quyền liên quan đến quyền tác giả, bao gồm: người biểu diễn, tổ chức sản xuất băng ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và những người khác có hành vi vi phạm quyền của họ; 9.Tranh chấp giữa tác giả, đồng tác giả với những người có liên quan nhưng không phải là tác giả, bao gồm: người sưu tầm tài liệu cho tác giả, người cung cấp tài chính và phương tiện vật chất khác.
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (Điều 25, Điều 27, Điều 33, Điều 34), thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sở hữu trí tuệ của Toà án được xác định như sau: 1.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần tuý là tranh chấp dân sự, thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện; 2.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ thuần tuý là tranh chấp dân sự nhưng có đương sự hoặc đối tượng sở hữu trí tuệ ở nước ngoài, thuộc quyền của Toà án cấp tỉnh; 3.Nếu tranh chấp sở hữu trí tuệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận được coi là tranh chấp thương mại, kinh doanh và thuộc thẩm quyền của Toà án cấp tỉnh.
Thủ tục tố tụng dân sự cho phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học được quyền khởi kiện yêu cầu Toà án công nhận quyền của mình; buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả, chấm dứt hành vi xâm phạm; và buộc người có hành vi xâm phạm phải bồi thường thiệt hại.
Phương thức hành chính
Thẩm quyền thực thi quyền tác giả thuộc về một hệ thống các cơ quan hành chính sau đây:
– Chính Phủ: Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về bảo hộ quyền tác giả trong phạm vi cả nước (Điều 29, Nghị định 76/CP).
– Bộ văn hoá-thông tin: Bộ văn hoá-thông tin chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hộ quyền tác giả (Điều 29, Nghị định 76/CP). Cụ thể, Bộ văn hoá-thông tin có nhiệm vụ và quyền hạn cơ bản là: Xây dựng các chủ trương, chính sách về bảo hộ quyền tác giả; Ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính Phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội ban hành văn bản pháp luật về bảo hộ quyền tác giả; Thực hiện hoặc phối hợp với các Bộ, ngành liên quan bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;Thực hiện hoặc phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan kiểm tra, thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm quyền tác giả theo thẩm quyền; Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả[7].
– Cục bản quyền tác giả văn học-nghệ thuật: Cục Bản quyền có trách nhiệm giúp Bộ văn hoá-thông tin thực hiện quản lý Nhà nước về quyền tác giả (Điều 30-Nghị định 76/CP). Cục bản quyền tác giả văn học-nghệ thuật có chức năng, nhiệm vụ là: Soạn thảo dự án luật, pháp luật, nghị định, văn bản pháp luật khác về bảo hộ quyền tác giả; cấp và thu hồi Giấy chứng nhận quyền tác giả, Giấy phép hoạt động nghiệp vụ dịch vụ bản quyền tác giả; Hướng dẫn Sở văn hoá-thông tin thực hiện quản lý Nhà nước về quyền tác giả tại địa phương; Tổ chức, thực hiện việc hợp tác quốc tế với nước ngoài, các tổ chức quốc tế về quyền tác giả; Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tác giả và thực hiện hoạt động thông tin về bảo hộ quyền tác giả; bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về quyền tác giả cho các cán bộ có liên quan ở Trung ương và địa phương;
– Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại địa phương (Điều 32-Nghị định 76/CCP).
– Sở văn hoá-thông tin: Sở văn hoá-thông tin có trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện pháp luật bảo hộ quyền tác giả tại địa phương (Điều 32-Nghị định 76/CP).
– Thanh tra chuyên ngành văn hóa thông tin: Thanh tra chuyên ngành văn hoá-thông tin thuộc Bộ văn hoá-thông tin hoặc sở văn hoá-thông tin có trách nhiệm xử lý, giải quyết các vụ tranh chấp, vi phạm quyền tác giả; Thanh tra chuyên ngành văn hoá-thông tin có quyền quyết định xử phạt hành chính theo thẩm quyền (Điều 34-Nghị định 76/CP).
– Cơ quan hải quan: Chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ đã được bảo hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam có quyền đề nghị cơ quan hải quan tạm dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá nhập khẩu, xuất khẩu mà mình có căn cứ cho rằng có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 57-Luật hải quan năm 2001). Thủ tục thực thi tại cơ quan hải quan được quy định tại Thông tư liên tịch số 58/TTLT/BVHTT-BTC ngày 17/10/2003 của Bộ văn hoá thông tin và Bộ tài chính.
– Cơ quan quản lý thị trường[8]: Cục quản lý thị trường thuộc Bộ thương mại và các chi cục quản lý thị trường thuộc Sở thương mại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có chức năng kiểm tra, kiểm soát thị trường nội địa, xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại và là một cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ và chống hàng giả trong thị trường nội địa. Với chức năng này, lực lượng quản lý thị trường ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong công tác đấu tranh chống hàng giả liên quan đến sở hữu trí tuệ nhằm góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của doanh nghiệp và người tiêu dùng, góp phần phát triển sản xuất và hội nhập kinh tế của Việt Nam.
– Cảnh sát kinh tế: Lực lượng cảnh sát nhân dân chủ động phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ trật tự công cộng; phát hiện nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm, vi phạm pháp luật và kiến nghị các biện pháp loại trừ những nguyên nhân, điều kiện đó. Lực lượng cảnh sát nhân dân thực hiện việc xử phạt hành chính đối với các vi phạm pháp luật về trật tự, an toàn xã hội theo quy định của pháp luật. Cơ quan điều tra của lực lượng cảnh sát nhân dân tiến hành các hoạt động điều tra và đề nghị truy tố người phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự (Điều 5-Pháp lệnh cảnh sát nhân dân năm).
– An ninh văn hoá: Lực lượng an ninh nhân dân tổ chức và thực hiện việc bảo vệ bí mật nhà nước, an ninh biên giới, an ninh các khu vực xung yếu về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh các cơ sở khoa học-kỹ thuật; quản lý công tác an ninh trong thông tin liên lạc; quản lý việc thực hiện quy chế xuất nhập cảnh, quy chế đối với người nước ngoài cư trú, làm việc tại Việt nam (Điều 9-Pháp lệnh an ninh nhân dân năm).
– Bộ đội biên phòng: Bộ đội biên phòng có nhiệm vụ trực tiếp và phối hợp với các đơn vị khác của lực lượng vũ trang nhân dân, các ngành chức năng của nhà nước đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép vũ khí, chất cháy, chất nổ, chất độc hại, ma tuý, văn hoá phẩm độc hại, hàng hoá cấm xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới trên đất liền, các hải đảo, vùng biển theo quy định của pháp luật (Điều 9-Pháp lệnh bộ đội biên phòng năm).
Đối với phương thức hành chính, các biện pháp bảo vệ quyền của chủ thể bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ rất phong phú. Cụ thể bao gồm: phạt tiền, tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh; tịch thu tang vật, phương tiện xâm phạm hành chính; buộc loại bỏ các yếu tố xâm phạm trên sản phẩm, hàng hoá, phương tiện kinh doanh; buộc bồi thường thiệt hại do xâm phạm hành chính gây ra; buộc tiêu huỷ hàng hoá xâm phạm có chất lượng kém gây thiệt hại cho sức khoẻ con người. Trong đó, hình thức xử phạt chính là phạt tiền.
Phương thức hình sự
Khi hành vi xâm phạm quyền tác giả của cá nhân, tổ chức là hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cá nhân, tổ chức đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thông thường, hành vi xâm phạm quyền tác giả bị xử lý hình sự nếu trước đó đã bị xử lý hành chính.
Bộ luật hình sự năm 1985, sau đó đến Bộ luật hình sự năm 1999 đều quy định các tội danh và hình phạt tương ứng nhằm bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Để bảo vệ quyền tác giả, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hai tội: tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131) và tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271).
Khi bị xử lý hình sự, cá nhân, tổ chức xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể bị phạt tiền, cảnh cáo, cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định hoặc bị cấm hành nghề nhất định trong một thời gian và hình phạt cao nhất họ có thể phải gánh chịu là phạt tù.
Trong hệ thống các cơ quan đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, bên cạnh các cơ quan nhà nước, cần phải kể đến vai trò của các tổ chức quản lý tập thể như: Trung tâm quyền tác giả văn học-nghệ thuật; Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam; Hiệp hội công nghiệp ghi âm Việt Nam; Hiệp hội chống hàng giả và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (gọi tắt là VACIP)[9].
Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực thi quyền tác giả
Những kết quả đạt được
Trước hết, phải khẳng định rằng: các quy định pháp luật hiện hành của nước ta về thực thi quyền tác giả đã bước đầu tạo được cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm thực thi quyền tác giả ở Việt Nam. Pháp luật quyền tác giả bao gồm những nội dung cơ bản và thiết yếu cho việc thực thi quyền tác giả, cụ thể là: các quy định về hành vi vi phạm quyền tác giả; các biện pháp thực thi quyền tác giả; hệ thống các cơ quan bảo đảm thực thi quyền tác giả. Chính những quy định này đã góp phần hình thành một cơ chế bảo đảm thực thi quyền tác giả ở Việt Nam.
Hơn nữa, về cơ bản, các quy định về thực thi quyền tác giả của pháp luật Việt Nam tương thích với các Công ước quốc tế quan trọng về quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả mà chúng ta đã và sẽ thành viên như: Công ước Berne, Hiệp định TRIPs[10].
Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những kết quả đã được trên đây, quy định pháp luật Việt Nam về thực thi quyền tác giả còn bộc lộ một số hạn chế.
Thứ nhất, các quy định về thực thi quyền tác giả còn rất tản mạn, chưa có tính hệ thống, tính thống nhất.
Hiện nay, vấn đề thực thi quyền tác giả được quy định rải rác trong rất nhiều văn bản có hiệu lực khác nhau, do các quan cơ quan khác nhau ban hành, một vấn đề được quy định ở nhiều văn bản khác nhau. Có thể liệt kê một số văn bản sau đây: Bộ luật dân sự năm 1995; Nghị định 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; Công văn số 97/KHXX ngày 21/8/1997 của Toà án nhân dân tối cao xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp; Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT ngày 5/12/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ văn hoá-thông tin về giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Nghị định 88/CP ngày 14/12/1995 của Chính Phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong các hoạt động văn hoá và phòng chống tệ nạn xã hội; Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 16/6/2001 của Chính Phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá-thông tin (Nghị định này bãi bỏ mục 1,2 và 4-chương II của Nghị định 88/CP kể trên); Luật hải quan năm 2001; Nghị định số 101/2001/NĐ-CP ngày 31/12/2001 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hải quan; Nghị định số 10/CP ngày 23/1/1995 của Chính Phủ về tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của quản lý thị trường; Quyết định số 127/QĐ-TTg ngày 27/8/2001 của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập Ban chỉ đạo chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại; Bộ luật hình sự năm 1999; Ngày 21/8/1997, Toà án nhân dân tối cao đã ban hành Công văn số 97/KHXX xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Tiếp đó, ngày 5/12/2001, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ văn hoá-thông tin đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT/TANDTC-VKSNDTC-BVHTT về giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Toà án nhân dân. Tuy nhiên, tất cả những văn bản pháp luật này cũng chưa quy định rõ, đầy đủ các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ cụ thể nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục tố tụng dân sự.
Những quy định tản mạn, không mang tính hệ thống này gây rất nhiều khó khăn cho việc thực hiện pháp luật về quyền tác giả. Xin nêu ra đây một ví dụ: khi muốn xác định một tranh chấp cụ thể về quyền tác giả có thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân không, cá nhân, tổ chức thực hiện pháp luật không thể tìm được ở một hoặc vài văn bản pháp luật mà phải nghiên cứu quá nhiều văn bản khác nhau như: Bộ luật dân sự và văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ luật tố tụng dân sự, Thông tư của Toà án… Thẩm quyền của Toà án chỉ có thể xác định được trên cơ sở các quy định rải rác trong các văn bản pháp luật kể trên và thực tế phát sinh.
Thứ hai, còn những quy định chưa rõ ràng về thực thi quyền tác giả. Ví dụ: quy định về thẩm quyền cụ thể của từng cơ quan trong hệ thống các cơ quan hành chính trong thực thi quyền tác tác giả. Đây là vấn đề rất cần các quy định pháp luật xác định rõ.
Thứ ba, còn nhiều vấn đề chưa được điều chỉnh.
Trước hết, phải kể đến một loạt các vấn đề trong giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng theo thủ tục tố tụng dân sự chưa được pháp luật điều chỉnh. Đó là các vấn đề: nguyên đơn, chứng cứ , giám định. Bộ luật tố tụng dân sự chỉ quy định những vấn đề này khi giải quyết vụ án dân sự nói chung mà chưa có quy định cho giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Cụ thể như sau:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định “Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người khởi kiện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm. Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn” (khoản 2-Điều 56). Do pháp luật không quy định ai có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng, dẫn đến trong thực tế người có quyền khởi kiện đôi khi bỏ mất quyền khởi kiện hoặc người không có quyền khởi kiện lại khởi kiện nên không được Toà án giải quyết.
Theo quy định tại Điều 82-Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, pháp luật thừa nhận chín nguồn chứng cứ mà đương sự được sử dụng để đảm bảo nghĩa vụ chứng minh của mình. Ngoài quy định chung này trong Bộ luật tố tụng dân sự, không có bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy định về chứng cứ trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ[11].
Trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, giám định là vấn đề quan trọng và cần thiết trong một số trường hợp.Vấn đề giám định sẽ đặt ra khi đối tượng sở hữu trí tuệ đang có tranh chấp là đối tượng phức tạp. Theo Điều 90 – Bộ luật tố tụng dân sự, Thẩm phán ra quyết định trưng cầu giám định theo sự thoả thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự. Kết luận giám định là một nguồn chứng cứ quan trọng. Tuy nhiên, Điều 67 – Bộ luật tố tụng dân sự về người giám định chỉ quy định chung chung “Người giám định là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy định của lĩnh vực có đối tượng cần giám định”. Cho đến nay, trong lĩnh vực sở hưũ trí tuệ, chưa có quy định cụ thể cơ quan nào có thẩm quyền giám định, trình tự, thủ tục giám định ra sao.
Hơn nữa, trong thời đại phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện nay, rất nhiều loại hành vi vi phạm quyền tác giả mới xuất hiện như ăn cắp thông tin trên mạng, phá hoại thông tin trên mạng… Tuy nhiên, những loại tội phạm mới này cũng chưa được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam.
II. Thực thi quyền tác giả ở Việt Nam
1. Vi phạm quyền tác giả xảy ra thường xuyên, ở hầu hết các lĩnh vực và trong tình trạng đáng báo động. Điều đó chứng tỏ rằng, cho đến nay, hiệu quả thực thi quyền tác giả không cao.
Trong lĩnh vực xuất bản: Tình trạng in lậu sách diễn ra thường xuyên. Theo thống kê, chỉ trong nửa đầu tháng 3 năm 2005, đã có hai nhà xuất bản bị vi phạm bản quyền. Đó là nhà xuất bản Trẻ và nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Mười đầu sách của nhà xuất bản Trẻ đã bị “luộc” và in lậu với số lượng lớn. Những tác phẩm mà Công ty văn hoá sáng tạo Trí Việt-First News đã mua bản quyền của Mỹ và liên kết với nhà xuất bản Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh ấn hành cũng bị in lậu. Sách bị in lậu là hiện tượng gây đau đầu cho các nhà xuất bản, họ cho rằng “sách lậu là căn bệnh trầm kha của ngành xuất bản” và kêu cứu “không hề có câu trả lời cho việc bao giờ những hiện tượng như vậy mới chấm dứt, bao giờ những đơn vị xuất bản làm ăn đứng đắn được yên ổn để phát triển hoạt động của mình. Hơn lúc nào hết, chúng tôi rất mong có được những giải pháp hữu hiệu từ phía các cơ quan quản lý nhà nước để sớm chấm dứt tình trạng trên”[12]. Các sách in lậu được bán với giá chỉ bằng 50% giá bán của sách được xuất bản hợp pháp. Chính điều này đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh thu và sự tồn tại của các nhà xuất bản.
Ngược lại, chính các nhà xuất bản cũng vi phạm quyền của tác giả tác phẩm như: không xin phép tác giả khi xuất bản. Ví dụ trường hợp nhà xuất bản Văn học tự ý xuất bản truyện ngắn của hai nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và Phan Thị Vàng Anh.
Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh băng, đĩa: Hiện nay các trung tâm sản xuất, kinh doanh băng đĩa hợp pháp đều lo ngại về tình trạng không kiểm soát nổi của thị trường băng, đĩa lậu. Hoạt động nhập lậu, in lậu, lưu hành, kinh doanh băng, đĩa lậu thường xuyên diễn ra trên thị trường và tại khu vực cửa khẩu, biên giới. Hầu hết các băng đĩa được bán trên thị trường hiện nay là băng, đĩa được in lại không được phép của nhà xuất bản, được nhập lậu, đặc biệt là nhập lậu từ Trung Quốc. Cũng giống như sách in lậu, băng, đĩa in lậu được bán với giá rất rẻ-có khi chỉ bằng 1/10-so với giá băng, đĩa được sản xuất hợp pháp.
Nạn băng, đĩa lậu cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của ngành điện ảnh. Ví dụ: trường hợp của Công ty xuất nhập khẩu và phát hành phim Việt Nam (gọi tắt là FAFIM Việt Nam). Có nhiều bộ phim được FAFIM mua bản quyền, trong hợp đồng thoả thuận chiếu nhiều lần, song lại bị các đài truyền hình địa phương thu và phát sóng. Chính điều này làm cho đối tác của FAFIM giảm đáng kể (từ chỗ có 20 đối tác, nay chỉ còn 10) và ảnh hưởng đến doanh thu của Công ty[13].
Bên cạnh nạn in lậu băng, đĩa là vấn đề các nhà sản xuất băng, đĩa âm thanh, băng đĩa hình không xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm mà họ sử dụng trong băng, đĩa sản xuất. Theo thống kê, 1/3 số đĩa nhạc được sản xuất trong năm 2004 là nhạc ngoại lời Việt (chủ yếu là nhạc Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản). Khi sản xuất các đĩa này, nhà sản xuất cũng không xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm.
Phần mềm máy tính: Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, những vi phạm quyền tác giả trong lĩnh vực này cũng tăng đáng kể. Nhiều phần mềm của tác giả nước ngoài và tác giả Việt nam bị các tổ chức, cá nhân sao chép, sử dụng không được phép của tác giả. Ngày 18 và 19/11, thanh tra Bộ Văn hoá-Thông tin đã tiến hành kiểm tra và lập biên bản vi phạm hành chính hai công ty máy tính Phong Vũ và Hoàn Long (Thành phố Hồ Chí Minh). Các chương trình cài đặt trái phép trên máy tính tại hai công ty trên bao gồm Microsoft Windows, Microsoft Office, Vietkey 2000, ACD See, Corel Draw và Adobe Photoshop với tổng giá trị gần 150 triệu đồng. Thanh tra Bộ Văn hoá-Thông tin đã niêm phong 30 máy tính và tịch thu 40 đĩa CD có chứa phần mềm bất hợp pháp. Mỗi công ty bị xử phạt 25 triệu đồng và phải gỡ bỏ toàn bộ phần mềm đã bị cài đặt.
Trong lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật: Loại vi phạm nổi bật nhất là biểu diễn nghệ thuật không được sự đồng ý của tác giả hoặc có xin phép nhưng không trả thù lao thoả đáng cho tác giả. Loại vi phạm này diễn ra nhiều nhất ở hoạt động biểu diễn âm nhạc.
Tuy nhiên, cũng có dấu hiệu đáng mừng rằng, sau khi Việt Nam là thành viên của Công ước Berne, các tổ chức, cá nhân liên quan đến quyền tác giả đều thận trọng hơn khi sử dụng tác phẩm. Nhiều ca sĩ, nhà sản xuất băng, đĩa hình, băng đĩa nhạc đã phải bỏ đi các bài hát nước ngoài, các bài hát nhạc Hoa, nhạc Thái lời Việt trong chương trình. Nhà xuất bản Văn học, nơi sách dịch chiếm 1/3 tổng số sách phát hành hàng năm cũng đã tạm dừng tất cả các sách dịch vì chưa tìm ra cách thức nào để liên hệ với tác giả, chủ sở hữu tác phẩm[14].
2. Các vi phạm quyền tác giả chủ yếu được giải quyết bằng thủ tục hành chính, ít được giải quyết tại Toà án.
Những tranh chấp, vi phạm quyền tác giả có thể được giải quyết theo thủ tục hành chính bởi một hệ thống các cơ quan hành chính, thủ tục tố tụng dân sự và thủ tục tố tụng hình sự tại Toà án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy: hầu hết các tranh chấp và vi phạm quyền tác giả ở nước ta được giải quyết theo thủ tục xử lý vi phạm hành chính bởi ba cơ quan: cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường và thanh tra chuyên ngành văn hoá-thông tin[15]. Lý do là: tác giả, chủ sở hữu tác phẩm chưa thật sự tin tưởng vào trình độ chuyên môn của các thẩm phán hiện nay; bên cạnh đó, việc giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự hoặc hình sự làm cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và những chủ thể có quyền liên quan mất nhiều thời gian, công sức và cả tiền bạc.
Theo thống kê, hàng năm lực lượng quản lý thị trường kiểm tra và xử lý hàng nghìn vụ vi phạm pháp luật sở hữu trí tuệ. Năm 1998, xử lý 2000 vụ; năm 2001, xử lý 4002 vụ; năm 2003 xử lý 5808 vụ; năm 2004, xử lý 5977 vụ[16].
Số liệu thống kê xét xử của Toà án nhân dân tối cao chỉ ra rằng: số vụ việc về quyền tác giả được giải quyết tại Toà án quá ít ỏi. Trong cả ba năm 2001, 2002 và 2003: cấp huyện (sơ thẩm) chỉ thụ lý 3 vụ tranh chấp quyền tác giả trên tổng số 183.567 vụ việc dân sự; cấp tỉnh (sơ thẩm) chỉ thụ lý 19 vụ tranh chấp quyền tác giả trên tổng số 9.234 vụ việc dân sự. Cụ thể, xem bảng ba thống kê dưới đây[17]:
Cấp xét xử | Tổng số vụ việc về quyền tác giả | Số việc đã giải quyết | Quyết định của Toà án | Tổng số vụ dân sự |
Sơ thẩm cấp Huyện | 0 | 56293 | ||
Sơ thẩm cấp tỉnh | 05 | 02 | Đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn | 2687 |
Năm 2002
Cấp xét xử |
Tổng số vụ việc về quyền tác giả |
Số việc đã giải quyết |
Quyết định của Toà án |
Tổng số vụ dân sự |
Sơ thẩm cấp Huyện |
1 |
0 |
|
61422 |
Sơ thẩm cấp tỉnh |
05 |
04 |
Đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn 03; Xét xử: 01 |
2893 |
Năm 2003
Cấp xét xử |
Tổng số vụ việc về quyền tác giả |
Số việc đã giải quyết |
Quyết định của Toà án |
Tổng số vụ dân sự |
Sơ thẩm cấp Huyện |
2 |
1 |
Xét xử |
65852 |
Sơ thẩm cấp tỉnh |
09 |
04 |
Hoà giải thành: 2; Xét xử: 02 |
3564 |
3. Các cơ quan có thẩm quyền gặp nhiều vướng mắc trong quá trình thực thi quyền tác giả
Thứ nhất, về thẩm quyền cụ thể của các cơ quan thực thi quyền tác giả.
ở nước ta hiện nay, thẩm quyền thực thi quyền tác giả thuộc về nhiều cơ quan khác nhau mà có thể chia thành hai loại: 1. Toà án nhân dân; 2. Các cơ quan khác bao gồm: Uỷ ban nhân dân, thanh tra chuyên ngành văn hoá-thông tin, cảnh sát kinh tế, quản lý thị trường, hải quan, an ninh văn hoá và bộ đội biên phòng. Quy định các cơ quan khác nhau cùng có thẩm quyền thực thi quyền tác giả là cần thiết vì mỗi lực lượng này có thế mạnh khác nhau trong đấu tranh phòng và chống vi phạm quyền quyền tác giả. Tuy nhiên, chỉ xét riêng đối với các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả, vấn đề cần lưu ý là: pháp luật chưa phân định rạch ròi thẩm quyền của từng cơ quan. Cho nên, trong thực tế, có vụ việc nhiều cơ quan cùng giải quyết, có vụ việc không rõ thuộc thẩm quyền của cơ quan nào. Sự kết hợp hoạt động của các cơ quan này chưa đồng bộ, nhuần nhuyễn, đôi khi còn có mâu thuẫn trong giải quyết một số vụ việc. Bởi vậy, hiệu quả thực thi quyền tác giả không cao, quyền và lợi ích chính đáng của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không được đảm bảo.
Thứ hai, về xác định hành vi vi phạm quyền tác giả. Các văn bản pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể các hành vi xâm phạm quyền tác giả[18]. Chính điều này gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền. Có những hành vi xâm phạm quyền tác giả một cách rõ ràng, nhưng cũng có những hành vi phải phân tích, xem xét kỹ lưỡng mới kết luận được có phải hành vi vi phạm hay không. Cho nên, dẫn đến hai hệ quả là: bỏ sót ngừơi vi phạm hoặc xử lý người chưa vi phạm.
Thứ ba, về giám định.Vấn đề giám định sẽ đặt ra trong trường hợp đối tượng sở hữu trí tuệ đang có tranh chấp là đối tượng phức tạp. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chỉ quy định chung chung về người giám định (Điều 67 – Bộ luật tố tụng dân sự) mà chưa có quy định cụ thể: trong trường hợp đối tượng giám định thuộc quyền tác giả thì cơ quan nào có thẩm quyền giám định, trình tự, thủ tục giám định ra sao.
Thứ tư, về xác định thiệt hại. Theo quy định của Bộ luật dân sự (Điều 759), tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, tác giả có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án buộc người có hành vi xâm phạm quyền tác giả phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa quy định cụ thể về cách thức xác định thiệt hại, mức bồi thường thiệt hại trong trường hợp quyền sở hữu trí tuệ bị xâm hại. Nếu chỉ căn cứ vào các quy định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” tại chương 5, phần thứ ba của Bộ luật dân sự sẽ không thoả đáng khi giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại do đối tượng sở hữu trí tuệ bị xâm phạm. Hơn nữa, theo nguyên tắc, nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh mức độ thiệt hại thực tế và thiệt hại tiềm tàng của mình do hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp gây ra. Tuy nhiên, để chứng minh được điều này là điều không đơn giản với nguyên đơn. Hiện nay, các Toà án rất lúng túng trong việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn. Trong hầu hết các vụ việc, việc xác định mức bồi thường cho nguyên đơn là không thoả đáng, bởi vậy không bảo vệ được lợi ích chính đáng của họ.
Thứ năm, về biện pháp khẩn cấp tạm thời: Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong Hiệp định TRIPs với ý nghĩa là một biện pháp chế tài dân sự và hành chính. Tuy nhiên, mãi đến năm 2004, khi Bộ luật tố tụng dân sự được ban hành, biện pháp này mới được thừa nhận ở Việt Nam. Như vậy, cho đến nay biện pháp này còn rất mới mẻ ở Việt Nam và hầu như chưa được áp dụng trong thực tế. Đây cũng chính là một khó khăn cho những người làm công tác xét xử.
III. Kết luận
Hiện nay, đối với hầu hết các nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển, cơ sở pháp lý cho quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng đã ở mức độ hoàn thiện. Các quốc gia, bởi vậy, tập trung vào việc xây dựng cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ và đảm bảo thực thi hiệu quả quyền này[19]. Còn ở Việt Nam, hiện nay chúng ta đang trong quá trình hoàn thiện cơ sở pháp lý cho quyền sở hữu trí tuệ và đồng thời cũng đang tìm cho mình một cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ thật hiệu quả. Bởi vậy, cần phải xác định được tầm quan trọng của cả hai vấn đề: xây dựng các pháp luật sở hữu trí tuệ và thực thi pháp luật sở hữu trí tuệ.
Những phân tích trên đây chỉ ra rằng: các quy định pháp luật Việt Nam về thực thi quyền tác giả chưa ở mức độ hoàn thiện, vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Tình hình thực thi thể hiện hiệu quả thực thi chưa cao, cơ chế bảo đảm thực thi chưa tốt. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: cơ sở pháp lý về quyền tác giả chưa hoàn thiện, nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề thực thi quyền tác giả; trình độ và kinh nghiệm của những người làm công tác thực thi chưa cao, chưa nhiều.
Sau đây, xin đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền tác giả.
Thứ nhất, hoàn thiện cơ sở pháp lý về quyền tác giả nói chung, những quy định pháp luật về thực thi quyền tác giả nói riêng. Việc thực thi quyền tác giả chịu sự điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Do đó, hoàn thiện cơ sở pháp lý không phải chỉ được thể hiện ở việc hoàn thiện Luật sở hữu trí tuệ mà còn bao gồm các luật khác như luật hình sự, luật hành chính, luật thương mại. Tức là việc hoàn thiện phải mang tính hệ thống, thống nhất trong cả hệ thống pháp luật chứ không phải chỉ riêng pháp luật sở hữu trí tuệ.
Đối với phương thức dân sự, để bảo đảm giải quyết tốt hơn tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tụng tố tụng dân sự, cần phải quy định cụ thể hơn về các vấn đề: 1. Những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; 2. Những tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ trước Toà án; 3. Các chứng cứ đương sự được sử dụng trong quá trình chứng minh; 4. Cơ quan có thẩm quyền giám định và trình tự, thủ tục giám định; 5. Nguyên tắc bồi thường và xác định mức định bồi thường khi quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm.
Đối với phương thức hành chính, cần phải quy định rạch ròi thẩm quyền của các cơ quan có chức năng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả. Bên cạnh đó, cũng cần tăng mức phạt tiền đối với những vi phạm hành chính trong lĩnh vực quyền tác giả.
Đối với phương thức hình sự, cần quy định những tội phạm mới cho phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin.
Thứ hai, nâng cao nhận thức cộng đồng về vai trò của sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí tuệ, thực thi quyền sở hữu trí tuệ. Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cũng khẳng định vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng là mấu chốt để nâng cao hiệu quả thực thi trong Chiến lược hành động của mình[20].
Thứ ba, đảm bảo phối hợp hoạt động hiệu quả giữa các cơ quan thực thi quyền tác giả; đảm bảo sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý thực thi với nhà sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng và các Hiệp hội.
Thứ tư, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng của các cán bộ chuyên trách.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế. Ngay từ thế kỷ 19, bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ không còn là vấn đề của mỗi quốc gia mà là vấn đề toàn cầu. Bởi vậy, để đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ nói chung, quyền tác giả nói riêng, cần phải tăng cường sự hợp tác giữa các quốc gia.
[1] Xem: ; và
[2] Công ước Berne năm 1886, bổ sung lần cuối cùng tại Paris năm 1979 về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật; Công ước Rome năm 1961 về bảo vệ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát thanh, truyền hình; Công ước Geneva năm 1971 về bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm, chống lại việc sao chép trái phép bản ghi âm; Công ước UCC (Universal Copyright Treaty) năm 1971, Công ước toàn cầu về quyền tác giả; Công ước Brussels năm 1974 liên quan đến tín hiệu mang chương trình truyền hình qua vệ tinh; Hiệp định TRIPs năm 1994 về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; Hiệp ước WCT (WIPO Copyright Treaty) – Hiệp ước về quyền tác giả của WIPO; Hiệp ước WPPT năm 1996- Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm .
[3] Ngoài ra, vấn đề thực thi quyền tác giả còn được quy định tại Điều 11 và Đièu 12 của Hiệp ước về quyền tác giả của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO Copyright Treaty-WCT); Điều 18 và Điều 19 của Hiệp ước về biểu diễn và bản ghi âm của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO Performances and Phonograms Treaty – WPPT).
[4] Xem:
[5] Nghị định 76-CP ngày 29/11/1996 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự.
4. Xem Điều 759– Bộ luật dân sự; Điều 7- Nghị định 76/CP.
[7] Các quyền hạn trên được cụ thể hoá trong Nghị định 63/2003/NĐ-CP ngày 11/6/2003 của Chính Phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ văn hoá-thông tin.
[8]Về vai trò, chức năng và hoạt động của cơ quan quản lý thị trường trong việc đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ, xem website:
[9] VACIP được thành lập theo Quyết định số 12/2005/QĐ-BNV của Bộ trưởng Bộ nội vụ ngày 05/01/2005. Hiệp hội bao gồm 18 thành viên là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam như: Unilever, Procter & Gamble, Ajinomoto, Nike…
[10] Về vấn đề này, xem bài: “Sự tương thích giữa các quy định pháp luật vè quyền tác giả của Việt Nam và các công ước quốc tế về quyền tác giả” – Nguyễn Như Quỳnh.
5. Dự thảo Luật sở hữu trí tuệ cũng quy định về chứng cứ mà đương sự có quyền sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, đây vẫn là quy định sơ sài.
[12] Trang 14 – Tạp chí Pháp luật Việt Nam, Chuyên đề số 1, tháng 4 năm 2005.
[13] Xem website: . cov.org.vn
[14] Website: . cov.org.vn
[15] Theo Nguồn tin từ Cục bản quyền tác giả văn học-nghệ thuật, cho đến nay, có khoảng 95% hành vi vi phạm quyền tác giả được xử lý hành chính.
[16] Số liệu từ website của Bộ thương mại Việt Nam:
[17]Ba bảng thống kê này do tác giả tổng hợp từ nguồn Thống kê xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, Toà án nhân dân tối cao.
[18] Xem bài: Xác định hành vi vi phạm quyền tác giả-tác giả…
[19] Tất nhiên, việc xây dựng luật và việc thực thi luật luôn phải song hành với nhau, nhưng nói chung nếu việc xây dựng luật đạt ở mức độ cao thì vấn đề thực thi luật được tập trung nhiều hơn.
[20] Xem website:
SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ (TÁC GIẢ GỬI – SỐ PHÁT HÀNH CHƯA XÁC ĐỊNH)