admin@phapluatdansu.edu.vn

CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC CẦN THỰC HIỆN CÓ BÀI BẢN

NGUYỄN KIM HỘI – Ngân hàng Công thương Chi nhánh Vĩnh Phúc

Trong quá trình tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chúng ta đã đạt được thành tựu đáng kể. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao gấp 5 – 6 lần so với khi doanh nghiệp chưa cổ phần hoá. Nhưng cũng còn nhiều doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá tình hình sản xuất kinh doanh giậm chân tại chỗ do những đơn vị này khi cổ phần hoá thiếu thận trọng, khi xây dựng dự án không tính toán kỹ sản xuất mặt hàng mới hoặc chưa đổi mới công nghệ tân tiến. Công tác tổ chức cán bộ còn cồng kềnh hoặc bộ máy cũ, hoặc dự án kêu gọi vốn cổ phần huy động vốn chưa đạt hiệu quả thiết thực phải vay vốn ngân hàng trên 70% cả vốn cố định và vốn lưu động. Để cổ phần hoá chúng ta phải nghĩ ngay đến vấn đề phân bố. Phân bổ nền kinh tế từng bộ, từng tỉnh. Trong qui hoạch cổ phần hoá, để khi cổ phần hoá có đủ các loại sản phẩm tốt, cần thiết. Tránh trường hợp nhiều doanh nghiệp trong cả nước cùng sản xuất một sản phẩm gây thừa mặt hàng này lại thiếu các mặt hàng khác. Chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ sản xuất.

Để việc tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước nhanh và hiệu quả thiết thực, có sức cạnh tranh mới hội nhập kinh tế chúng ta cần thống nhất chỉ đạo những việc cần làm ngay, hay gọi là các bước đi để đem lại hiệu quả thiết thực. Thứ nhất, là khởi động cổ phần hoá trên cơ sở kế hoạch chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ giao cho các bộ, tỉnh, thành phố tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. Từng năm, các Bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố dự kiến thông báo các doanh nghiệp Nhà nước thuộc mình quản lý. Để xây dựng dự án, các bước tiến hành cổ phần hoá, khâu tổ chức cán bộ, khâu huy động vốn, đổi mới công nghệ và đào tạo cán bộ hiện có để sử dụng, nhất thiết không được đẩy người lao động dẫn đến mất việc làm… Thứ hai, các Bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố cả các chuyên viên có kinh nghiệm, hiểu biết về xây dựng các bước cổ phần hoá để giúp đỡ các doanh nghiệp tiến hành xây dựng dự án cổ phần hoá có bài bản, tính toán hiệu quả kinh tế. Sau đó các Bộ trưởng, chủ tịch UBND các tỉnh và hội đồng họp nghe cụ thể các doanh nghiệp trình bày dự án, các đại biểu tham gia kỹ sau đó bổ sung để dự án hoàn thiện tiến hành hiệu quả cao. Bước cuối là hoàn chỉnh dự án, Bộ trưởng và chủ tịch UBND, thành phố phê duyệt. Thứ ba, là dự án xây dựng phải đạt được các công việc cụ thể sau: – Dự kiến sản xuất mặt hàng sản phẩm cũ đang sản xuất hay phải chuyển sang sản xuất mặt hàng mới (cụ thể là mặt hàng gì…), sau đó mới xác định tính toán hiệu quả kinh tế (thị trường, nguyên vật liệu, xuất, nhập khẩu), lãi sau thuế và trích lập các quỹ, lợi tức chia cho cổ đông tăng hàng năm. – Khâu quan trọng để dự án đạt hiệu quả kinh tế cao, đó là để CBCNV tham gia góp cổ phần. Kêu gọi các cổ đông trong nước tham gia cổ phần. Mời chào các cổ đông nước ngoài tham gia cổ phần 30% tổng vốn cần có của dự án. Nếu chưa đạt 50% vốn tham gia thì báo cáo Chính phủ. Tham gia cổ phần nhất thiết dự án chỉ vay ngân hàng 50% vốn, còn lại là vốn các cổ đông góp cổ phần. Trích lập các quỹ phát triển sản xuất, quỹ bù đắp rủi ro theo tỷ lệ nghị quyết của hội đồng quản trị và hội đồng cổ đông. Nếu doanh nghiệp nào huy động được 100% vốn cố định và vốn lưu động bằng vốn góp cổ phần thì dự án rất hiệu quả, rất tốt. – Tổ chức và cán bộ có tính quyết định lâu dài. Chọn cán bộ có khả năng thực sự, có chuyên môn, trình độ phẩm chất đạo đức nghề nghiệp tốt, đủ điều kiện để bầu vào những vị trí quan trọng. Nếu không chọn được cán bộ giỏi thì phải bầu hoặc người có cổ phần ngoài doanh nghiệp góp nhiều vốn và có trình độ chỉ đạo quản lý sản xuất kinh doanh thì chọn và thông qua hội đồng cổ đông hoặc chọn cách làm mới, giao cho giám đốc cũ và các thành viên hội đồng quản trị viết ý tưởng của mình. Nếu giao cho quản lý doanh nghiệp thì đồng chí điều hành sản xuất kinh doanh ra sao, báo cáo rõ ý tưởng của mình để hội đồng cổ đông nghe và bầu chọn lấy cán bộ giỏi. – Khâu có ý nghĩa chính trị rất quan trọng mà chúng ta phải làm bằng được tạo đà cho CBCNV có việc làm và có cổ phần góp trong doanh nghiệp để có tiếng nói hay được tham gia ở hội đồng cổ đông. Cán bộ công nhân viên nào không có vốn góp cổ phần, Nhà nước cho vay trong 5 năm, lãi suất 0,2%/tháng. Mỗi công nhân được vay tối thiểu 20 triệu đồng để góp vốn, sau 5 năm sẽ trả lãi và gốc. Nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khó khăn thì được gia hạn thêm 5 năm. Việc nhỏ nhưng ý nghĩa chính trị thì rất lớn. – Việc đánh giá lại tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp để tiến hành cổ phần hoá là khâu có nhiều vướng mắc. Để đảm bảo quyền lợi cho Nhà nước và quyền lợi cho CBCNV trong doanh nghiệp. Trước khi cổ phần hoá chúng ta phải kiểm kê lại toàn bộ tài sản. Đất được Nhà nước cấp hay đất được Nhà nước cho thuê bao nhiêu năm và đã nộp tiền thuê bao nhiêu. Hai là Ban kiểm kê đánh giá từng tài sản cố định, từng tài sản lưu động theo giá thực tế ở thị trường. Còn lại phải tính theo giá trị hiện còn tốt và theo giá trị thị trường hiện hành. Công nợ còn lại phải có trách nhiệm, trả cho ngân hàng hoặc người bán nếu có. Công nợ phải thu, phải kê rõ tên tổ chức, cá nhân nợ, số lượng tiền hay hàng hoá qui ra tiền theo giá trị mới để thu đủ, thu ngay để tiến hành cổ phần hoá được thuận lợi. – Các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hoá thuộc bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, tiếp tục thực hiện các chủ trương, chính sách của bộ, tỉnh hướng dẫn. Theo quy định của Chính phủ, các doanh nghiệp cổ phần hoá thuộc bộ, tỉnh, thành phố, khi cổ phần hoá, tiếp tục là thành viên kinh tế dưới sự chỉ đạo, quản lý bằng chính sách vĩ mô lớn của Đảng, Nhà nước. Các Bộ, tỉnh, thành phố vẫn phải thường xuyên tạo điều kiện giúp đỡ để doanh nghiệp cổ phần hoá không ngừng phát triển bền vững. Đồng thời, cần tiếp cận để nắm vững tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp. Ban hành chính sách đổi mới phù hợp với yêu cầu của mọi doanh nghiệp cổ phần hoá. Tháo gỡ vướng mắc khó khăn kịp thời, phù hợp với nền kinh tế thị trường. Ngoại giao đối với các nước để ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu. Luôn tạo điều kiện thông thoáng và đáp ứng các yêu cầu chính đáng của mọi thành phần kinh tế, để đẩy nhanh nền kinh tế phát triển, đủ sức cạnh tranh hoà nhập quốc tế. – Cơ chế chính sách điều hành của Chính phủ và các cơ quan pháp luật cần uyển chuyển, thông thoáng để mọi thành phần kinh tế và các doanh nghiệp Nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá sản xuất kinh doanh phát triển. Chính phủ có thể nắm hay còn gọi là góp cổ phần 50% tổng nhu cầu vốn với điều kiện doanh nghiệp không huy động được nhiều cổ phần. Nếu doanh nghiệp huy động được nhiều cổ phần, thì Nhà nước chỉ tham gia các Tổng công ty lớn và cử cán bộ có trình độ tham gia hội đồng quản trị để ngầm giám sát, kịp thời giúp đỡ, hiệu chỉnh các tổng công ty lớn (cổ phần hoá) hoạt động có hiệu quả. Nhà nước chỉ quản lý bằng chính sách vĩ mô và kiên quyết xử lý doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế nào sản xuất kinh doanh chụp dật, lừa đảo, tham ô, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng. Các doanh nghiệp và mọi thành phần kinh tế có trách nhiệm làm nghĩa vụ với Nhà nước đầy đủ và trích lập các quỹ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Lợi tức còn lại được phân chia đủ theo tỷ lệ góp vốn cổ phần và phân phối theo đúng nghị quyết của Hội đồng quản trị và Hội đồng cổ đông. – Cần bảo vệ quyền lợi của CBCNV, các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, công ty TNHH… đều phải có trách nhiệm mua bảo hiểm đầy đủ cho người lao động. Thành phần kinh tế nào không mua bảo hiểm cho người lao động hoặc vi phạm nhân quyền, phải kiên quyết xử lý, kể cả doanh nghiệp nước ngoài sản xuất kinh doanh tại Việt Nam./.


SOURCE: http://www.icb.com.vn/?id=075275&page=8&sheet=1&c=94&m=94

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d bloggers like this: