admin@phapluatdansu.edu.vn

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO CỬ NHÂN LUẬT HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

THS. LÊ TIẾN CHĀU –  Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

I. Đặt vấn đề

Một trong những yêu cầu cơ bản và quan trọng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và hành vi xử sự của công dân đều phải dựa trên cơ sở pháp luật. Muốn vậy, chúng ta phải đào tạo được những người có hiểu biết nhất định về pháp luật, trong đó đội ngũ cán bộ công chức nhà nước nói chung, cán bộ của các cơ quan tư pháp nói riêng phải hiểu biết sâu sắc về pháp luật. Mặt khác, Đảng và Nhà nước ta chủ trương cải cách tư pháp thì việc xây dựng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp vừa có những hiểu biết sâu sắc về pháp luật vừa có bản lĩnh chính trị vưng vàng, có phẩm chất đạo đức tốt là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đúng như Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã khẳng định. Việc đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý được Bộ Chính trị xác định: “Sắp xếp lại việc đào tạo cử nhân luật tập trung vào hai trường: Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; thống nhất chương trình, giáo trình đào tạo, bảo đảm các sinh viên sau khi tốt nghiệp phải có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và nắm vững kiến thức pháp luật”. Cụ thể hóa Nghị quyết quan trọng này, ngày 19/3/2002 Thủ tướng đã có Chỉ thị sô 10/CT, theo đó Thủ tướng Chính phủ giao cho Bộ Giáo dục và Đào tạo “Chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan khác xây dựng đề án sắp xếp lại các trường đào tạo luật theo hướng tập trung vào hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, trình Chính phủ trong quý III năm 2002. Chỉ đạo các cơ sở đào tạo luật xem xét, đánh giá chương trình, giáo trình hiện có, xây dựng Đề án thống nhất chương trình và giáo trình đào tạo luật, bảo đảm các cử nhân luật sau khi ra trường phải có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và nắm vững kiến thức pháp luật”. Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thực hiện chỉ thị này. Trong quá trình thảo luận để triển khai xây dựng đề án, đã có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề “Sắp xếp lại các trường đào tạo luật theo hướng tập trung vào hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP Hồ Chí Minh”.

Có ý kiến cho rằng Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ: việc đào tạo luật chỉ giao cho hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; các cơ sở khác có đào tạo cử nhân luật sẽ không được tiếp tục đào tạo. Vì vậy, các cơ sở hiện nay đang đào tạo luật hoặc là sáp nhập vào một trong hai trường luật hoặc là giải thể. Tuy nhiên, ý kiến khác lại cho rằng Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị là Nghị quyết vê cải cách tư pháp, kết luận trong Nghị quyết chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực tư pháp, điều này có nghĩa là việc giao đào tạo cử nhân luật cho hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh là việc đào tạo can bộ pháp lý cho các cơ quan tư pháp. Trong điều kiện chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường thì việc đào tạo luật không chỉ đáp ứng cán bộ cho cơ quan tư pháp mà còn đáp ứng yêu cầu cán bộ cho các cơ quan hành chính và các doanh nghiệp, cũng như nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đi xa hơn, còn có ý kiến cho rằng việc đào tạo luật không nên bó hẹp trong phạm vi các trường công lập mà còn có thể giao cho cả các trường ngoài công lập, tức là tất cả các trường công lập và dân lập đều có thể đào tạo luật nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội.

Mặc dù có nhiều ý kiến khác nhau, mỗi ý kiến đều có những lập luận, tiếp cận vấn đề dưới những góc độ khác nhau và đều có những hạt nhân hợp lý. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy hầu hết các ý kiến đều thống nhất cho rằng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chúng ta không nên hạn chế số lượng các cơ sở đào tạo luật mà cần phải đa dạng các hình thức đào tạo để đáp nhu cầu của xã hội. Vì vậy, không chỉ giao việc đào tạo cử nhân luật cho hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh mà có thê tiếp tục giao cho nhiều cơ sở đào tạo luật như hiện nay, thậm chí có thể mở rộng các cơ sở đào tạo luật. Nhà nước cần tập trung đầu tư về kinh phí, về nhân lực, về đất đai, về cơ chế và các điều kiện khác để ưu tiên cho công tác đào tạo của hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh; Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chủ trì cùng với Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan khác tiến hành xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn để tiến hành khảo sát, đánh giá lại một cách khách quan, toàn diện về thực trạng đào tạo luật của tất cả các cơ sở hiện nay để xác định các biện pháp, cách thức xử lý thích hợp. Có thể tiếp tục cho phép đào tạo, mở rộng quy mô đào tạo, nhưng cũng có thể thu hẹp, thậm chí không cho phép tiếp tục đào tạo nếu xét thấy chưa đủ điều kiện. Quá trình sắp xếp, quy hoạch lại các trường đào tạo luật cần tham khảo kinh nghiệm nước ngoài.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thành lập các đoàn công tác để tiến hành khảo sát, đánh giá thực trạng đào tạo luật ở các cơ sở đào tạo luật trong cả nước, qua đó thấy được bức tranh toàn cảnh về vấn đề đao tạo luật làm cơ sở cho ban soạn thảo hoàn thành đề án trình Chính phủ xem xét quyết định. Qua khảo sát, có thể khái quát vài nét về thực trạng đào tạo cử nhân luật hiện nay ở nước ta.

II. Khái quát tình hình đào tạo cư nhân luật hiện nay ở nước ta

Hiện nay, cả nước có trên 11 cơ sở đào tạo luật, hàng năm có khoảng 9.000 cử nhân luật tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo này. Chưa có một khảo sát đầy đủ, toàn diện và chính thức số sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường có bao nhiêu phần trăm có việc làm và việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo, bao nhiêu phần trăm về công tác tại các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội hoặc làm nghề tự do… Nhưng có một điều chắc chắn rằng nhu cầu được đào tạo về pháp luật hiện nay trong xã hội là rất lớn, có thể nhận thấy điều này qua một thực tế là những năm gần đây hầu hết số sinh viên luật ra trường đều khá dễ dàng tìm được việc làm, số lượng thí sinh đăng ký dự thi vào các trường luật ở tất cả các hệ đào tạo đều tăng. Qua thực tế khảo sát và khách quan mà nhận xét rằng những năm qua việc đào tạo cử nhân luật ở các cơ sở trong chừng mực nào đó đã đáp ứng phần lớn nhu cầu của xã hội. Không ít sinh viên luật ra trường trong khoảng thời gian ngắn đã giữ những vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan tư pháp nói riêng. Đội ngũ cán bô giảng dạy ngày càng trưởng thành, với số lượng ngày càng đông và với trình độ ngày càng cao hơn, đội ngũ này không chỉ được đào tạo trong nước mà họ còn được đào tạo ở các nước có nền pháp luật tiên tiến. Chương trình đào tạo ngày càng hiện đại, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước và hệ thống pháp luật quốc tế; hệ thống giáo trình khá đầy đủ và đa dạng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập và nghiên cứu khoa học. Phương pháp giảng dạy từng bước được đổi mới. Cơ sở vật chất được đầu tư đầy đủ, khang trang và hiện đại; công tác quản lý ngày càng khoa học và tiên tiến hơn.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy bên cạnh những gì đa đạt được, việc đào tạo cử nhân luật trong thời gian qua vẫn còn không ít những khó khăn và bất cập, vì vậy cần phải có sự đánh giá một cách khách quan, khoa học, dựa trên những thông số thật sự chính xác, trung thực để có biện pháp chấn chỉnh trước khi bàn đến chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo pháp luật. Có thể thấy điều này qua một số thông tin sau đây:

1. Đội ngũ giáo viên

Về số lượng: Mặc dù luôn có sự bổ sung so với những năm trước đây, song qua khảo sát hầu hết các cơ sở đào tạo đều thiếu giáo viên cơ hữu mà phụ thuộc khá nhiều vào số giáo viên thỉnh giảng từ các cơ sở đào tạo khác. Qua báo cáo của các trường cho thấy: cơ sở có số lương giáo viên đông nhất cũng chỉ đạt 62,05 sinh viên/1 giáo viên (trong đó CQ: 17,68/1; TC: 44,37/1); thấp nhất chỉ đạt 101,78 sinh viên/1 giáo viên (trong đó CQ: 22,45/1; TC: 89,33/1); các cơ sở đào tạo khác đạt trung bình từ 72,10 sinh viên/1 giáo viên đến 95,71 sinh viên/1 giáo viên. Tất nhiên tất cả các trường đều sử dụng đội ngũ giáo viên thỉnh giảng (làm cho tỷ lệ sinh viên/giáo viên có giảm xuống), thậm chí có cơ sở đào tạo luật có trên 4.000 sinh viên nhưng không có một giáo viên luật nào mà hoàn toàn phụ thuộc vào giáo viên bên ngoài. Ở đây cần khẳng định rằng việc sử dụng đội ngũ giáo viên thỉnh giảng trong quá trình đào tạo ở các trường cũng có những ưu điểm nhất định, các trường có thể lựa chọn những giáo viên có uy tín, có kinh nghiệm và trình độ; nhà trường lại không phải gánh nặng các khoản lương, phúc lợi và các khoản hỗ trợ khác để trả cho giáo viên… Tuy nhiên, điều này chỉ phát huy hiệu quả khi sử dụng một tỷ lệ giáo viên thỉnh giảng thích hợp, khó có thể chấp nhận tình trạng nhiều cơ sở đào tạo luật hiện nay phụ thuộc hoàn toàn vào lực lượng bên ngoài.

Về trình độ: Theo báo cáo của các trường thì ngoại trừ các trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội (có số lượng giáo viên có trình độ sau đại học chiếm tỷ lệ khá cao, dao động từ 64% đến 84%, trong đó số giáo viên có học vị tiến sỹ chiếm từ 14% đến 34% ), hầu hết ở các cơ sở đào tạo luật khác số lượng giáo viên có trình độ sau đại học chiếm tỷ lệ khá thấp, dao động từ 21,42% đến 42,72%, trong số đó tỷ lệ giáo viên có học vị tiến sỹ rất khiêm tốn, trung bình 22,41%; có không ít cơ sở đào tạo luật có số lượng sinh viên lên trên 2.500 nhưng không có một giáo viên luật nào có học vị tiến sỹ. Chưa có thống kê về số lượng giáo viên được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ sư phạm, ngoại ngữ cũng như trình độ lý luận chính trị nhưng có một điều chắc chắn rằng tỷ lệ được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức này là rất thấp.

Về cơ cấu: Việc tuyển dụng và đào tạo giáo viên ở các cơ sở đào tạo luật chưa đồng đều ở các bộ môn, có một số bộ môn rất đông giáo viên, thường đó là những bộ môn mà môn học có số tiết lớn, có thể giảng dạy ở nhiều cơ sở khác nhau. Ngược lại có những bộ môn không có giáo viên hoặc có nhưng với số lượng rất hạn chế, tất nhiên đó là những bộ môn mà môn học có số tiết rất ít, không thể giảng ở các cơ sở đào tạo khác. Điều này dẫn đến tình trạng là khi có giáo viên nào đó không thể lên lớp được sẽ không có giáo viên khác thay thế kịp thời, buộc sinh viên phải nghỉ học. Hiện tượng này xảy ra không ít ở các cơ sở đào tạo luật.

Trong khi đó, hầu hết các trường chưa có chiến lược tổng thể và lâu dài để quy hoạch, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy luật cho cơ sở đào tạo của mình, nhiều cơ sở thường bị động trông chờ vào số sinh viên luật ra trường có nguyện vọng xin ở lại trường công tác; việc nâng cao trình độ phần lớn phụ thuộc vào chính sự nỗ lực của bản thân giáo viên. Nhiều cơ sở đào tạo chưa có chính sách cụ thể và hấp dẫn để thu hút những người có khả năng và trình độ cao ở lại trường. Vì vậy, trong một thời gian dài nhiều cơ sở đào tạo luật không tuyển được hoặc có tuyển được nhưng số lượng và trình độ không cao.

2. Chương trình, giáo trình

Về chương trình: Một số cơ sở đào tạo sử dụng chương trình do Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh xây dựng, có cơ sở sử dụng nguyên bản, cũng có cơ sở có một số cải biên để thể hiện nét đặc trưng riêng của trường mình, nhưng nhìn chung là chưa được thực hiện thống nhất, không có sự khác biệt lớn; thậm chí có cơ sở đào tạo mở ngành đào tạo luật kinh doanh và luật thương mại quốc tế, mới nghe thì rất hấp dẫn nhưng chương trình thì lại lấy nguyên xi của các cơ sở đào tạo khác để giảng dạy cho người học mà không có sự giải thích thuyết phục. Trong khi đó chương trình khung của 7 ngành khoa học xã hội, trong đó có ngành luật đã được hội đồng chuyên ngành (do các giáo sư có uy tín và trình độ xây dựng) thông qua đang chờ lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo ký ban hành. Tuy nhiên, khi trao đổi về thông tin này nhiều cơ sở đào tạo luật rất lúng túng.

Về giáo trình: Ngoại trừ trường Đại học Luật Hà Nội và Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội có bộ giáo trình tương đối đầy đủ và khá hoàn chỉnh, còn hầu hết các cơ sở đào tạo khác đều chưa có bộ giáo trình riêng của mình mà chủ yếu là các tập bài giảng do các bộ môn tự xây dựng. Riêng Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, ngoài số tài liệu là đề cương bài giảng, hiện nay các chủ biên đang gấp rút hoàn thành để trình hội đồng khoa học đào tạo thông qua (dự kiến trong năm học này) và theo đúng kế hoạch đến hết năm 2007 trường sẽ có bộ giáo trình riêng của mình. Trong khi đó ở các cơ sở đào tạo luật khác kế hoạch biên soạn giáo trình chưa dành được sự quan tâm của những người có trách nhiệm. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng và trình Chính phủ đề an đổi mới toàn diện giáo dục đại học, một trong những nội dung quan trọng là triển khai công tác đào tạo theo cơ chế tín chỉ, cơ chế này dần dần sẽ thay thế cho việc đào tạo theo niên chế và nếu đề án này được Chính phủ thông qua thì yêu cầu các cơ sở đào tạo nói chung và đào tạo luật nói riêng phải có hệ thống giáo trình đầy đủ, có chất lượng để phục vụ cho người học chứ “Không thể chấp nhận công tác đào tạo mà ở đó thầy đọc cho trò ghi như hiện nay”.

3. Hoạt động khoa học

Hoạt động khoa học cũng là nội dung cần được quan tâm. Bởi lẽ, nghiên cứu khoa học là một trong hai nhiệm vụ chính của các cơ sở đào tạo và của người thầy. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu khoa học hiện nay ở nhiều cơ sở đào tạo luật chưa dành được sự quan tâm đầy đủ. Kết quả khảo sát cho thấy có cơ sở đã được cho phép đào tạo luật từ những năm 2000, hàng năm cho ra trường hơn 200 sinh viên nhưng chưa thê thực hiện được một đề tài cấp bộ, đề tài cấp trường thì không có gì mới, chủ yếu là khai thác từ các đề tài đã được người khác thực hiện từ trước. Điều này cũng dễ hiểu, bởi lẽ giáo viên phải dành nhiều thời gian cho việc giảng bài, thậm chí có giáo viên giảng đến 4, 5 môn học. Nhiều cơ sở đào tạo chưa xây dựng cơ chế để xác định trách nhiệm của giáo viên trong công tác nghiên cứu khoa học, chưa tạo được nhiều động lực trong hoạt động khoa học của giáo viên. Trong hoạt động khoa học, đáng chú ý là hoạt động chuyên môn trong các bộ môn và khoa, vấn đề đảm bảo tính chính xác (một trong những yêu cầu bắt buộc của việc giảng dạy luật), tính khoa học trong nôi dung bài giảng chưa được đảm bảo.

4. Về công tác quản lý đào tạo Công tác quản lý đào tạo cũng là một trong những vấn đề rất quan trọng. Bởi lẽ, nếu việc quản lý được thực hiện tốt là một trong những đảm bảo quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đào tạo. Tuy nhiên, công tác này trong thời gian qua chưa được thực hiện tốt, một số cơ sở chấp hành quy chế chưa nghiêm, cá biệt còn vi phạm nghiêm trọng quy chế đào tạo. Thậm chí có cơ sở đào tạo cho rằng quản lý đào tạo chỉ đơn thuần là vấn đề kiểm tra và thi, một số cơ sở đào tạo không có cán bộ chuyên trách để quản lý đào tạo mà giao cho giáo viên trực tiếp lên lớp đảm nhiệm. Mặt khác, vấn đề đào tao cử nhân luật thiếu sự kiểm tra, giám sát như hiện nay còn do lỗi của nhiều cấp quản lý đào tạo, đặc biệt là trong việc thẩm định, đánh giá để cho phép các trường mở ngành đào tạo luật, cũng như việc giao chỉ tiêu cho các cơ sở đào tạo. Về vấn đề này Chính phủ đánh giá như sau: “Công tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện…; quản lý nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng; cơ chế chính sách chưa rõ ràng, thiếu đồng bộ…” [Nghị Quyết số 50 ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao]. Thực tế hiện nay, đối với các trường đa ngành, Bộ giao chỉ tiêu cho các trường, căn cứ vào nhu cầu của xã hội các trường phân bổ lại cho các khoa. Điều này chỉ có thể được đảm bảo về chất lượng đào tạo khi các khoa có đủ năng lực và có trách nhiệm với xã hội trong công tác đào tạo. Nhưng thực tế cho thây đã có không ít trường giao chỉ tiêu cho khoa theo nhu cầu của xã hội mà chưa thực sự quan tâm vào năng lực đào tạo và những điều kiện đảm bảo của các khoa.

5. Phương pháp đào tạo

Theo đánh giá chung của các thành viên đoàn khảo sát thì ngoại trừ một số cơ sở đào tạo luật đã có những nỗ lực trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, phần lớn các cơ sở đào tạo khác phương pháp đào tạo chậm được đổi mới, phương pháp truyền thống vẫn là phương pháp chủ đạo, giáo viên lên lớp truyền đạt nặng về kiến thức lý luận, ít kiến thức thực tiễn, việc sử dụng tình huống trong công tác đào tạo cử nhân luật chưa nhiều và chưa được quan tâm; các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ cho viêc đổi mới phương pháp giảng dạy còn rất hạn chế…

6. Về cơ sở vật chất

Nhìn chung cơ sở vật chất, phương tiện kĩ thuật hiện đại hỗ trợ cho công tác đào tạo luật hiện nay ở một số trường đạt mức độ trung bình. Trong điều kiện hội nhập là một xu hướng tất yếu sẽ đặt ra yêu cầu cạnh tranh trong giáo dục, trong đó có giáo dục pháp luật đòi hỏi các trường phải đổi mới, trong đó có vấn đề mở rộng và nâng cao chất lượng cơ sở vật chât, các trang thiết bị hiện đại. Với thực trạng cơ sở vật chất như hiện nay là chưa đạt yêu cầu. Ở một số cơ sở đào tạo, lãnh đạo nhà trường đã có rất nhiều cố gắng trang bị nhiều phương tiện kĩ thuật hiện đại để hỗ trơ cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy như: trang bị máy chiếu, máy vi tính xách tay, phòng xử án tập sự, hồ sơ để sinh viên diễn án, thư viện điện tử, nối mạng internet để cho người học có thể nghiên cứu, sưu tầm tài liêu ở các thư viện hiện đại trên thế giới, phòng học dành cho lớp chất lượng cao… Tuy nhiên, diện tích giảng đường, phòng học, phòng làm việc, trung tâm thông tin thư viện, khu thi đấu thể thao, khu sinh hoạt văn hóa, khu ký túc xá sinh viên… còn rất chật chội. Đã nhiều năm qua lãnh đạo nhà trường làm dự án để xin cấp đất xây trụ sở mới khang trang, hiện đại, nhưng vì nhiều lý do khác nhau cho đến nay vẫn chưa có kết quả.

7. Hợp tác quốc tế

Nhiều cơ sở đào tạo đã rất cố gắng trong việc tạo cơ hội tìm kiếm những dự án hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong công tác đào tạo luật, nhiều dự án đã được ký kết, triển khai thực hiện và đã mang lai nhiều kết quả thiết thực, nội dung của sự hợp tác cũng hết sức đa dạng, từ việc đổi mới phương pháp giảng dạy, gửi giáo viên ra nước ngoài học tập, nghiên cứu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ… cho đến việc liên kết đào tạo ngay trong nước kết hợp tham quan, khảo sát, nghiên cứu ở nước ngoài; xúc tiến thành lập các trung tâm: kiểm định chất lượng đào tạo, luật so sánh, xây dựng thư viện điện tử, hỗ trợ tài liệu… cho đến việc hỗ trợ các trang thiết bị hiện đại góp phần đổi mới phương pháp giảng dạy… Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy phần lớn các dự án hợp tác quốc tế trong công tác đào tạo luật nhìn chung là không lớn, số lượng chưa nhiều, thời gian thực hiện tương đối ngắn, nội dung hợp tác có những dự án chưa thiết thực. Trong điều kiện hội nhập như hiện nay thì công tác hợp tác quốc tế là chưa tương xứng các cơ sở đào tạo cần phải nỗ lực hơn nưa trong thời gian tới.

III. Kết luận và kiến nghị

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số kết luận sau đây:

1. Việc đào tạo cử nhân luật trong thời gian qua trong chừng mực nào đó đã đáp ứng phần lớn yêu cầu của xã hội, thực hiện khá tốt chủ trương đa dạng hóa các loại hình đào tạo, tạo điều kiện thuận lợi cho người học; quá trình đào tạo, đào tạo lại được tiến hành thường xuyên, góp phần nâng cao trình độ dân trí về pháp luật, là động lực quan trọng để thực hiện thành công chủ trương cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam ngày càng vững mạnh, tạo ra một xã hội học tập.

2. Các cơ sở đào tạo cử nhân luật qua quá trình đào tạo ngay càng trưởng thành hơn về mọi mặt, với những thế mạnh riêng của mình đã tạo ra sự đa dạng và sự cạnh tranh cần thiết trong công tác đào tạo pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo.

3. Trong sự phát triển chung cua nhiều cơ sở đào tạo, vẫn còn một số cơ sở đào tạo cử nhân luật chưa thực sự chú trọng đến chất lượng đào tạo, trách nhiệm đối với sản phẩm đào tạo của mình chưa rõ ràng, mở rộng quy mô đào tạo vượt quá năng lực cua mình, trong khi các điều kiện tối thiểu, bắt buộc chưa được đảm bảo; công tác quản lý chưa chặt chẽ… dẫn đến chất lượng đào tạo thấp, trong đó yêu cầu: “ Các sinh viên sau khi tốt nghiệp phải có quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt và nắm vững kiến thức pháp luật…” là khó có thể thực hiện được.

4. Thời gian qua, mặc dù vẫn có sự hỗ trợ giữa các cơ sở đào tạo, đặc biệt là về chương trình, giáo trình, về giáo viên, về hoạt động khoa học… trong đó vai trò hỗ trợ, giúp đỡ của một số giáo viên hai trường Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh với các cơ sở đào tạo luật khác là rất quan trọng. Tuy nhiên, sự giúp đỡ này chưa trở thành chủ trương chung giữa các trường, còn mang tính cá nhân, tự phát, vai trò đầu tàu của hai trường này chưa được khẳng định mạnh mẽ.

Từ thực trạng nêu trên, chúng tôi cho rằng việc đào tạo cử nhân luật cần phải được đổi mới một cách toàn diện, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Việc đổi mới công tác đào tạo cử nhân luật cần đặt trong các yêu cầu sau đây:

Một là: yêu cầu về cải cách giáo dục đại học nói chung, giáo dục pháp luật nói riêng.

Hai là: yêu cầu phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.

Ba là: yêu cầu đảm bảo sự quản lý thống nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo; phát huy tính chủ động và sáng tạo của các cơ sở đào tạo.

Bốn là: yêu cầu về đội ngũ cán bộ tư pháp cho những năm trước mắt và những năm tiếp theo.

Trên cơ sở những yêu cầu đó chúng tôi kiến nghị:

Thứ nhất: Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn để tiến hành khảo sát, đánh giá một cách cơ bản và toàn diện về năng lực đào tạo: nội dung, chương trình, giáo trình, quy mô, hình thức và phương phap đào tạo; chất lượng đào tạo của tất cả các cơ sở đào tạo luật trong cả nước và trong khoảng thời gian dài để làm cơ sở cho việc điều chỉnh, sắp xếp, xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống các cơ sở đào tao luật.

Trên cơ sở kết quả khảo sát và thẩm định năng lực đào tạo của các trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thể hiện mạnh mẽ quan điểm: không tiếp tục cho phép đào tạo cử nhân luật đối với các cơ sở đào tạo khi các cơ sở này chưa đủ năng lực, cho đến khi phấn đấu để đạt được những tiêu chuẩn do Bộ đặt ra. Lộ trình phấn đấu phải do các trường tự đăng ký với Bộ. Đối với các cơ sở đào tạo có các điều kiện khá hơn, Bộ cần nghiên cứu giao chỉ tiêu phù hợp với năng lực đào tạo (trước mắt nên giao chỉ tiêu trực tiếp cho khoa, chưa nên giao cho trường sau đó các trường giao lại cho khoa theo yêu cầu xã hội mà không chú ý đến năng lực đào tạo của đơn vị).

Thứ hai: Khẩn trương xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý đủ về số lượng, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng để đáp ứng yêu cầu công tác đào tạo pháp luật trong tình hình mới. Các cơ sở đào tạo luật cần phải có quy hoạch, kế hoạch chi tiết, cụ thể về những biện pháp, cách thức như: số lượng tuyển dụng, nguồn tuyển dụng, công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ… trong từng giai đoạn cụ thể với cơ chế, chính sách khuyến khích cũng như trách nhiệm cụ thể đối với từng khoa, bộ môn và từng giáo viên…

Thứ ba: Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo và cac Bộ ngành có liên quan cần nghiên cứu để giao cơ chế, kinh phí (kể cả kinh phí nhằm phục vụ cho chủ trương cải cách tư pháp), và các điều kiện cần thiết khác để xây dựng hai trường Đại học Luật Hà Nội và Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh thành hai trường trọng điểm quốc gia về đào tạo luật ở hai khu vực phía Bắc và phía Nam, thực hiện đúng chủ trương mà Nghị quyết 08/NQ- TW của Bộ Chính trị đã đề ra. Đồng thời làm “đầu tàu” giữ vai trò động lực giúp các cơ sở đào tạo luật khác cùng phát triển.

Thứ tư: Cho phép trường Đại học Luật Hà Nội và trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh mở thêm một số chuyên ngành phù hợp với nhu cầu phát triển của địa phương và vùng, gop phần tạo động lực phát triển; mở rộng thêm khối thi để gia tăng nguồn tuyển sinh và nâng cao chất lượng đầu vào; cho phép đào tạo cao học thực hành cùng với việc đào tạo cao học nghiên cứu.

Thứ năm: Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với Bộ Tư pháp và các Bộ ngành khác sớm xây dựng quy hoạch lại mạng lưới các trường đào tạo luật, trong đó cần chú ý đặc biệt đến việc thẩm định các điều kiện cần thiết, bắt buộc như đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo, cơ sở vật chất, các trang thiết bị hiện đại và các điều kiện khác trước khi cho phép các trường mở ngành đào tạo luật.

SOURCE: TẠP CHÍ KHOA HỌC PHÁP LÝ SÔ 4/2005

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

HỌC LUẬT ĐỂ BIẾT LUẬT, HIỂU LUẬT, VẬN DỤNG LUẬT VÀ HOÀN THIỆN LUẬT - nhhai@phapluatdansu.edu.vn
%d bloggers like this: